
quá ư ít ỏi, liệu có ai muốn đọc và có thể đọc hiểu
kinh luận Đại Thừa của ta đây?
[1'> Hay còn gọi là Tôn giả Ca-chiên-diên, ngài là một trong mười đại
đệ tử của Phật Thích Ca, nổi tiếng là một vị luận sư lỗi lạc.
Chàng rời khỏi tôi để bước đi trong căn phòng nhỏ:
- Điều mà trăm họ mong cầu nhất trong thời binh đao loạn lạc, không
phải một bậc danh sư lỗi lạc, mà là những kinh văn Phật pháp giúp họ
nguôi ngoai nỗi đau và được nhẹ lòng, những kinh văn giúp phổ độ chúng
sinh.
Chàng dừng lại bên cửa sổ, quay lại nhìn tôi, nụ cười của chàng như thấu suốt cõi đời, làm bừng sáng khí chất phi phàm.
- Bởi vậy, ta không tiếp tục theo đuổi lí tưởng trở thành một bậc
danh sư nữa, mà dành trọn phần đời còn lại để làm những công việc giúp
truyền bá rộng rãi, thuận tiện, dễ dàng các giáo lý Phật pháp ở Trung
Nguyên. Nếu có thể giúp cho ngày càng nhiều người lĩnh hội
được giá trị cơ bản của những cuốn kinh văn Phật pháp hay phổ độ những
người cùng khổ thành Phật, ta đã cảm thấy mãn nguyện rồi. Còn việc xây
dựng tông phái, chờ khi Phật pháp Trung Nguyên phát triển hưng thịnh, ắt sẽ có người tài trí thay ta làm việc đó.
Tôi ngước nhìn chàng, tàn tích của những tháng năm hiển hiện trên
gương mặt hao gầy, để lại những đường nét hằn trên vầng trán chàng, đỗ
lại dưới đuôi mắt chàng, day dứt trên bờ môi chàng. Đôi mắt không long
lanh như thuở trước mà nhuốm màu bãi bể nương dâu, thông tuệ và thấu
suốt cõi đời.
Xây dựng tông phái, trở thành bậc danh sư lỗi lạc vốn là lí tưởng của mọi cao tăng, cũng là khát vọng của chàng kể từ năm mười ba tuổi, nhưng chàng đã từ bỏ khi bước sang tuổi năm mươi ba. Quãng đời còn lại của
mình, chàng dành trọn cho việc dịch thuật kinh văn, không viết sách,
không xây dựng luận thuyết. Đối với các tín đồ Phật giáo ở Trung Nguyên, cống hiến của Rajiva là vô cùng to lớn bởi vì chàng đã dịch thành công
những cuốn kinh văn vô cùng quan trọng. Nhưng đối với chàng, chuyên tâm
dịch thuật kinh Phật đồng nghĩa với việc hi sinh lí tưởng suốt bốn mươi năm, để truyền bá Phật pháp rộng rãi bằng cách thức mà người Trung Quốc có thể dễ dàng lí giải và lĩnh hội. Chàng đã phải trăn trở, dằn vặt và
đấu tranh dữ dội nhường nào mới có thể dứt bỏ, mới có thể dấn thân như
vậy?
Và chàng, phải chăng đúng như một số nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo đã đánh giá, chỉ là một nhà truyền giáo thành công, chỉ là một pháp sư
“tuổi trẻ tài cao” không hơn không kém?
Một trong bốn đại đệ tử của chàng – đại sư Trúc Đạo Sinh là người đề
xướng thuyết “giác ngộ”, mọi chúng sinh đều có Phật tính, là giáo lý cơ bản của phái Thiền Tông sau này.
Cao tăng Cát Tạng, đời Đường, là người sáng lập Tam luận tông dựa
trên giáo lý của ba bộ kinh văn kinh điển: Trung quán luận, Bách luận,
Thập nhị môn luận, được Rajiva dịch và đã tôn chàng làm thủy tổ của tông phái này.
Cao tăng Trí Di, đã chọn cuốn “Pháp hoa kinh” do chàng dịch làm cơ sở giáo lý của giáo phái Thiên thai tông, vì vậy Thiên thai tông còn được
gọi là giáo phái Pháp hoa tông. Sức ảnh hưởng của giáo phái này càng
lớn, tiếng tăm của Rajiva càng được lưu truyền rộng rãi.
Bộ “Kinh A-di-đà” do Rajiva biên dịch, rất ngắn gọn, súc tích, dễ đọc dễ thuộc, đã trở thành “giáo trình” mà các đệ tử của phái Tịnh thổ tông phải đọc mỗi ngày. Bộ kinh văn này ngày càng được lưu truyền rộng rãi,
nhờ vậy mà sức ảnh hưởng của giáo phái này cũng ngày càng được mở rộng.
Đến thế kỷ thứ XIII, nhà sư người Nhật là Nhật Liên đã sáng lập ra
giáo phái Nhật Liên tông dựa trên bộ kinh văn “Pháp hoa kinh” do Rajiva
biên dịch và tôn chàng làm thủy tổ.
Những điều này, lẽ nào không đủ để chứng minh cho sự vĩ đại của chàng, chứng minh chàng đích thực là một bậc danh sư lỗi lạc? Ngoài Rajiva, Huyền Trang cũng là một bậc danh sư chỉ dịch thuật mà không
viết sách. Họ không để lại những tác phẩm của riêng mình, nhưng điều đó
không hề làm hư hao địa vị danh sư lỗi lạc của họ.
Sống mũi cay xè, tôi ngắm nhìn đôi mắt nhân từ, thông tuệ của chàng
và tôi hiểu ra rằng, chàng không màng đến việc trở thành bậc danh sư lỗi lạc nữa, vả chăng chàng cũng không còn thời gian để bận tâm đến việc đó nữa. Còn nhiều việc quan trọng hơn đang chờ đợi chàng. Tôi ngã đầu vào
ngực chàng, ôm lấy eo chàng, lắng nghe tiếng trái tim chàng gõ nhịp,
nước mắt lã chã rơi xuống áo cà sa màu nâu sòng. Chàng chỉ lặng lẽ lau
khô nước mắt của tôi bằng những nụ hôn, bao bọc tôi bằng nụ cười rạng
ngời, truyền cho tôi hơi ấm… Tôi đã nhận lại chiếc ba lô của mình vào
sáng sớm hôm sau. Không thể chờ thêm nữa, tôi lôi ra chồng ảnh dày cộp,
sắp xếp theo thứ tự thời gian và bắt đầu giới thiệu tỉ mỉ với chàng từng bức một, từ lúc nhóc Rajiva vừa chào đời, cho đến ngày sinh nhật lần
thứ ba mươi ba của tôi. Hàng nghìn tấm ảnh lấy từ máy tính xách tay và
điện thoại di động của tôi đã được đem đi rửa chỉ trong một ngày, tiêu
tốn gần hết cuộn phim của Chinh Viễn.
Chàng ngắm nghía từng bức ảnh một rất lâu, như thể muốn sống lại
những năm tháng và những khoảnh khắc đáng nhớ của nhóc Rajiva. Mỗi lúc
xúc động, người cha đá