
n tứ thánh”[1'>, “Bát tuấn”[2'> hay “Thập triết”[3'>. Tăng Triệu
luôn ở vị trí số một. Trong số các đệ tử người Hán, Tăng Triệu là người đi theo
Rajiva nhiều năm nhất, cũng là người được truyền dạy nhiều nhất. Tặng Triệu để
lại bốn cuốn luận xuất sắc, được người đời sau tập hợp lại trong quyển “Triệu
luận” – là cuốn kinh văn quan trọng của phái Tam luận tông. Chỉ tiếc rằng, Tăng
Triệu qua đời rất sớm (năm ba mươi mốt tuổi), nếu không vị sư trẻ này còn có
thể gặt hái được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa.
[1'>
Bốn đệ tử xuất sắc nhất của Kumarajiva.
[2'>
Tám đệ tử tài giỏi nhất trong pháp hội của Kumarajiva.
[3'>
Mười đệ tử thông minh trí tuệ nhất của Kumarajiva.
Tôi
đang mải quan sát vị sư trẻ tuổi, tài giỏi, thì nghe Rajiva nói khẽ:
-
Cẩu Nhi, con hãy quỳ lạy sư mẫu như quỳ lạy mẹ mình, vì chính sư mẫu đã cứu
sống con.
Cả
tôi và Tăng Triệu đều bàng hoàng ngẩng lên. Tôi kinh ngạc nhìn nhà sư trẻ nho
nhã, hiền hậu này, không còn chút dấu vết nào của hình hài chú bé con năm xưa
trên tay tôi nữa. Cẩu Nhi ư? Tăng Triệu chính là bé Cẩu Nhi tôi nhận nuôi năm
xưa ư?
-
Thưa thầy!
Tăng
Triệu dường như đã mất bình tĩnh, giọng run run:
-
Cô ấy, cô ấy chính là sư mẫu mà người ngày đêm mong nhớ? Chính là sư mẫu năm
xưa đã nhận lời kí thác của mẹ con đã cứu mạng và nhận nuôi con lúc nạn đói
hoành hành ở thành Guzang?
Rajiva
gật đầu khẳng định:
-
Bởi vậy, người khác có thể không nhận sư mẫu, nhưng con thì không được.
-
Sư mẫu!
Tăng
Triệu đột nhiên quỳ sụp xuống và bật khóc:
-
Cẩu Nhi lạy tạ ơn đức của sư mẫu. Nếu không có người, con đã bỏ mạng cùng cha
mẹ trong trận đói năm ấy, đâu thể theo thầy học đạo như bây giờ.
Nước
mắt chứa chan, tôi vội đỡ Tăng Triệu đứng dậy, năm nay cậu đã mười tám tuổi.
Sau khi tôi đi, Rajiva đã nuôi dưỡng và nhận cậu làm đệ tử. Vậy nên, mặc dù là
người trẻ nhất trong số mười đệ tử ưu tú của Rajiva, nhưng Tăng Triệu lại là đệ
tử được Rajiva truyền dạy nhiều nhất. Mười sáu năm sớm tối nương tựa vào nhau,
hai người không chỉ có tình thầy trò, mà còn có cả tình cha con.
Hàn
huyên với Tăng Triệu được đôi câu, thì chúng tôi hay tin Diêu Hưng sắp tới nơi.
Rajiva nắm tay tôi bước ra ngoài sau hai ngày giam chân trong phòng. Từ
lúc gặp chàng, tôi như người mất hồn, chẳng để tâm mình đang ở đâu,
chỉ lờ mờ nhớ rằng, sau cuộc hội ngộ trong chùa Thảo Đường, chàng dìu tôi đi chừng
mười lăm phút thì tới nơi này. Như vậy, nơi ở của chàng cách chùa không xa lắm,
có điều tôi chắc chắn rằng chàng không sống trong chùa.
Tôi
nheo mắt ngắm nhìn dinh cơ này trong nắng trưa chói chang, đó là một khu vườn
rộng lớn và trang nhã, nửa này của hoa viên là hàng tùng bách cao vút, nửa kia
là những cây lạp mai[4'>, hoa cỏ muôn màu đua nhau khoe sắc. Đúng vào mùa hoa
lạp mai nở rộ, hương thơm ngan ngát, đằm đượm, thấm vào tận buồng tim lá
phổi. Giữa vườn là một hồ nước nhân tạo nhỏ xinh, ven hồ là kiến trúc vọng đình
được xây trên một ngọn núi giả. Chạy dọc hoa viên là dãy nhà chính năm gian
được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống với ngói chồng và chiếu
nghỉ, cột trụ dầm xà được điêu khắc và trang trí hoa văn hết sức tinh tế, hai
dãy nhà ngang ở hai bên cũng rất trang nhã, hoa lệ.
[4'>
Lạp mai, tiếng Nhật gọi là Roubai, tiếng Anh là: Wintersweet, hoa lạp mai nở
vào mùa đông, cánh hoa trong như là sáp nến, mùi thơm dìu dịu, thoang thoảng.
Người hầu đang hối hả quét dọn, các nhà sư tấp nập ra vào, thấy chàng nắm tay
tôi, ai nấy đều tỏ ra kinh ngạc. Rajiva căn dặn người hầu gọi tôi là phu nhân,
lại nhắc nhở các đệ tử gọi tôi là sư mẫu. Theo sự sắp xếp của chàng, từ nay mọi
việc trong nhà sẽ do tôi cai quản. Sau đó, chàng đưa tôi đến phòng khách trong
dãy nhà chính. Giữa phòng bày một sạp gỗ lớn với các họa tiết khá cầu kì, hai
bên là các sạp gỗ nhỏ và bàn trà. Tượng Phật tổ được đặt trên một chiếc bàn
dài, hương thơm của gỗ đàn hương vấn vít tỏa lan khiến bầu không khí trở nên
thanh khiết, êm dịu.
Bao
năm bên nhau, đây là lần đầu tiên tôi được sống cùng chàng ở một nơi sang trọng
như vậy. Truyện kể về chàng viết rằng, chàng “không sống trong chùa
cùng các sư sãi khác, mà ở nhà riêng, có người hầu kẻ hạ, sung túc, đủ đầy”.
Diêu Hưng quả đã biệt đãi chàng.
Nhắc
đến Diêu Hưng chợt nhớ lại một chuyện, tôi khẽ hỏi Rajiva: - Hôm đó, trên
đại điện chùa Thảo Đường, lúc chàng đi về phía em, Diêu Hưng đã ngăn chàng lại.
Sau đó, chàng đã nói gì với nhà vua?
Rajiva
tủm tỉm cười, ghé sát tai tôi, thầm thì:
-
Có hai đứa bé cứ nhảy múa trên vai ta, hãy ban cho ta một thiếu nữ.
Tôi
gần như nghẹt thở, đưa tay lên bịt miệng, mắt tròn xoe nhìn chàng:
-
Chàng… chàng… vì sao lại nói vậy? Chàng mỉm cười bình thản: - Nếu ta không nói
như vậy, theo nàng, sử sách có thể được sửa lại không?
Tôi
không biết phải trả lời ra sao. Quả thực, dù chàng có nói gì với Diêu Hưng
chăng nữa, cũng chẳng thể thay đổi những ghi chép “đáng sợ” kia. Biết vậy,
nhưng trong lòng tôi vẫn không nguôi tấm tức. Tuy nhiên, thấy chàng dường như
xem chuyện đó nhẹ tựa lông hồng, tôi cũng th