
vậy.
-
Chuyện đó có gì khó!
Cặp
mắt Diêu Hưng phát sáng, nhà vua gật gù nói: - Trẫm sẽ lập tức hạ chỉ, chiêu mộ
tăng sĩ tài giỏi từ khắp nơi tề tựu về đây, bái quốc sư làm thầy, trợ giúp quốc
sư dịch thuật kinh Phật.
Sau
khi Diêu Hưng ra về thì buổi chiều hôm đó, chúng tôi vui mừng đón tiếp đại sư
Buddhayassa. Tiếng Hán của ngài không trôi chảy, nên ngài đã mất rất
nhiều công sức để đến được chùa Thảo Đường. Trước đó, tôi đã kể cho Rajiva nghe
chuyện tôi gặp đại sư trên đường đi. Chàng vui mừng khôn tả khi hay tin “người
bạn tri kỷ” sắp tới Trường An trợ giúp chàng dịch thuật kinh văn. Hơn hai mươi
năm mới gặp lại, họ có rất nhiều điều muốn nói với nhau. Tôi để hai người được
thoải mái chuyện trò, hàn huyên, còn mình thì tập làm quen với nơi ở mới dưới
sự hướng dẫn của Tăng Triệu.
Tôi
dạo quanh một lượt khu nhà, gặp ai Tăng Triệu cũng dừng lại, nghiêm nghị giới
thiệu với họ tôi là ai. Khi gặp lại tôi, các đệ tử Khâu Tử của Rajiva đều
nhận ra tôi. Mặc dù vô cùng kinh ngạc, nhưng họ vẫn tỏ ra rất mực cung kính với
tôi. Tôi cũng không muốn giải thích gì nhiều, chỉ mỉm cười nói với họ rằng, tôi
vừa từ nhà mẹ đẻ trở về.
-
Rajiva, chàng mệt không?
Tôi
đặt thêm lên bàn một chạc đèn gồm ba cây nến, dùng kéo cắt bỏ đầu bấc đã cháy
đen. Căn phòng sáng lên rất nhiều, nhưng vẫn không thế so sánh với bóng đèn
thời hiện đại. Nhìn bóng tôi và chàng quấn quít trên rèm cửa sổ, chợt nhớ đến
câu thơ của Lý Thương Ẩn: “Bao giờ chung bóng song Tây, Còn bao nhiêu chuyện
núi này mưa đêm”[5'>.
[5'>
Câu thơ trong bài “Dạ vũ ký bắc” (Đêm mưa gửi người phương Bắc), bản dịch của
Tương Như.
Lòng
chợt thấy ấm áp lạ.
-
Ta không mệt.
Chàng chấm đầu bút lông vào nghiên mực, tiếp tục công việc viết lách, nhưng
chốc chốc lại đưa tay lên dụi mắt. Ngồi cách bàn viết càng xa, mắt chàng càng nheo lại.
-
Chàng dừng lại một lát đã.
Tôi
dịu dàng lên tiếng, lôi trong ba lô ra chiếc kính lão, đeo lên mắt chàng.
Chàng kinh ngạc nhìn cuốn tập trước mặt, nhấc lên đặt xuống kiểm tra vài lần,
khóe môi vẽ một đường cong đẹp mắt, quay lại hỏi tôi:
-
Đây là thứ gì vậy? Vì sao đeo vào lại có thể thấy rõ như thế?
Chàng
đeo kính nhìn rất lạ, giống hệt các vị giáo sư uyên bác trong trường đại học.
Rajiva về già giống cha chàng như đúc. Tôi thầm cảm thán: sức mạnh di truyền
mới thật lớn lao làm sao!
-
Thứ này gọi là kính lão, dành cho người nhiều tuổi, mắt kém. Chiếc kính này ứng
dụng nguyên lý quang học, có thể giúp mắt chàng khôi phục khả năng tập trung.
Người cao tuổi nơi em sống đều đeo kính này khi đọc sách hay viết chữ. Chàng
chưa kịp tán tụng, tôi đã thở dài:
-
Em mang theo kính lão hai độ, là loại kính mà những người tầm năm mươi tuổi
thường đeo, nhưng không chắc dã chính xác, tốt nhất chàng nên đến bệnh viện để
đo mắt và kính. Nhưng tiếc là, chàng không đến đó được…
Chàng
không đáp, chỉ mỉm cười hiền từ, các nếp nhăn nơi đuôi mắt, trên trán, khóe môi
và trên cổ chàng được dịp “khoe mình”. Nhưng những dấu vết khắc nghiệt của thời
gian ấy không làm mất đi vẻ nho nhã ở chàng. Khí chất thoát tục từ con người
chàng đã thăng hoa tựa vò rượu quý ủ qua nhiều năm tháng, hương thơm,
theo thời gian, càng thêm nồng nàn, khiến người ta say đắm, khiến người ta ngất
ngây. Gương mặt từng trải ấy, tôi nhìn ngắm bao nhiêu cũng không thấy chán.
Chàng
“hào phóng” để mặc tôi nhìn ngắm, không đỏ mặt như hồi trẻ nữa. Nhưng thấy tôi
không có ý định kết thúc cuộc “thưởng lãm”, chàng buồn cười, định đưa tay ra
kéo tôi sát lại.
-
Đúng rồi, em còn món đồ này nữa. Tôi cố ý né tránh: - Chàng nhấc chân lên.
Tôi
giúp chàng xỏ đôi tất bằng lông cừu dài đến tận đầu gối, rất dày và ấm. Đây là
loại tất xuất khẩu sang Nga, mấy trăm nghìn một đôi, tôi đã mua liền một lúc
mấy chục đôi.
-
Chàng thấy ấm không? Mùa đông đi tất này sẽ không bị nứt nẻ nữa.
-
Ừ.
Chàng
ngẩng lên nhìn tôi, bật cười:
-
Thật không ngờ ta lại được sử dụng đồ vật của một nghìn năm sau.
Tôi
còn mang theo mấy chục hộp lưỡi dao lam, mười mấy chiếc dao cạo râu. Khi Tuyết
Tuyết nhìn thấy chiếc ba lô to uỳnh của tôi, cô bé đã giật mình hoảng hốt. Tôi
đưa tất cả cho Rajiva, chàng mỉm cười, lôi trong tủ ra một vật gì đó được quấn
bọc rất cẩn thận bằng khăn tay. Thì ra là một chiếc dao cạo râu đã gỉ sét, là
chiếc dao mà năm xưa tôi mang cho chàng.
Sống
mũi cay cay, tôi rút khăn tay chấm nước mắt:
-
Gỉ sét như vậy còn giữ lại làm gì nữa, số dao cạo râu mới này đủ cho chàng dùng
mấy năm liền.
Chàng
không đáp, chỉ lặng lẽ cười, bọc lại cẩn thận rồi cất vào tủ. Chàng xỏ tất lông
cừu, đeo kính lão, kéo tôi vào lòng, xiết chặt eo tôi, vùi đầu vào tóc tôi, hơi
thở ấm áp của chàng phà vào cổ tôi. Tôi khẽ hắng giọng, nhìn cuốn tập trên bàn,
hỏi chàng:
-
Chàng đang viết gì vậy”
-
Ta đang viết “Thực tướng luận” theo yêu cầu của Bệ hạ, sách này gồm hai
quyển. Ta viết ròng rã gần một tháng nay, cũng sắp xong rồi. Chàng ghé sát vào
tôi, dịu dàng nói:
-
Đại tướng Diêu Hiển và Tả tướng Diêu Tung nhiều lần ngỏ ý mời ta đến chùa Đại
Tự ở Trườ