
ch vẫn hành hạ tôi.ôi bị bệnh này hơn năm năm, từ thời
còn học cấp ba. Một chứng bệnh khó chữa, hay tái phát, do sự co thắt của các
mạch máu vùng đầu và trong sọ não gì đó.
Từ khi có ý thức đến năm mười lăm tuổi, rất nhiều lần tôi muốn chết. Khi ba
tôi đánh tôi một trận nát chổi lông gà vì tội ăn cắp hai trăm đồng trong túi áo
của mẹ để mua kẹo sing-gum. Khi ông nội tôi mất năm tôi tám tuổi. Khi tôi nghe
bài Gloomy Sunday do Sarah Mclachlan hát… Lúc đó tôi vẫn cho rằng chết rất dễ
dàng, chết giải quyết được mọi chuyện, chết là cứu cánh cuối cùng khi người ta
cảm thấy bơ vơ. Sau đó, tôi trưởng thành. Tôi không còn nghĩ đến cái chết đơn
giản như thế nữa.
Nhưng cơn đau do chứng đau đầu vận mạch vẫn đem lại cho tôi cảm giác muốn
chết như thế, ngay cả khi tôi qua tuổi mười lăm. Tôi đau kinh khủng ở thái
dương, ở hốc mắt, ở đỉnh đầu, ở gáy. Cơn đau vây bủa lấy tôi, không cách gì
thoát được. Cổ họng tôi trào lên cảm giác chua lét muốn nôn ọe. Tôi ở trong
toilet hàng giờ để nôn mửa nhưng vô ích. Mắt tôi hoa lên và đôi lần té ngã ở đâu
đó, khi cơn đau lên đến cực điểm. Tôi uống từng vốc thuốc mỗi ngày, trong nhiều
tuần, nhiều tháng. Nhưng chỉ cần ngừng thuốc khoảng vài hôm, lập tức tôi đau đầu
trở lại, cơn đau kinh khủng hơn bất cứ một cơn đau nào tôi từng biết. Mắt tôi mở
trừng trừng giữa những đêm triền miên mất ngủ. Tuổi trẻ của tôi như có một bóng
ma đau yếu bám theo.
Một bài báo viết rằng nguyên nhân của bệnh là do căng thẳng, thời tiết thay
đổi hay những sang chấn về tâm lý và cả yếu tố di truyền. Tôi căng thẳng? Đôi
khi. Thời tiết thay đổi? Thỉnh thoảng. Yếu tố di truyền? Gia đình tôi – theo như
tôi biết – chưa có ai bị chứng này. Sang chấn tâm lý? Là cái khỉ gì?
Tôi tìm trên mạng. Kết quả như sau.
“Từ điển Robert đưa ra ba định nghĩa:
a.Định nghĩa y học: Là toàn bộ những rối loạn về thể chất hoặc tâm lý gây ra
cho cơ thể con người do một chấn thương.
b.Định nghĩa tâm lý học và thường dùng: Sang chấn tâm lý là toàn bộ những rối
loạn do một sốc cảm xúc mãnh liệt gây ra.
c.Định nghĩa phân tâm học: Sự kiện phát động ở đương sự một luồng dồn dập các
kích thích vượt quá ngưỡng dung nạp của bộ máy tâm trí.”
Tôi không nhớ mình đã gặp sang chấn tâm lý nào, từ khi bắt đầu bị chứng này,
theo cả ba định nghĩa trên. Nhưng cũng có thể là tôi đã quên, hoặc tư duy đối
chiếu hiện tượng với khái niệm của tôi có vấn đề.
Đà Lạt lạnh, chứng đau đầu càng thoải mái hoành hành. Có nhiều đêm, nước mắt
tôi vô thức bật ra ràn rụa bởi cơn đau quằn quại. Tôi xiết muốn gãy thanh sắt ở
đầu giường, gồng thật mạnh, răng nghiến chặt, nghe rõ tiếng mạch máu đang rần
rật ở thái dương.
Một lần thấy tôi ôm đầu ngồi trong bếp, Ni nhẹ nhàng bảo cậu nên thử tập thể
dục xem sao, tôi từng thấy sự vận động đẩy lùi rất nhiều căn bệnh cả về thể chất
lẫn tinh thần.
Tôi mua một đôi giày chạy. Buổi sáng tôi dậy sớm, đeo earphones vào tai, chọn
nghe những bài hip hop sôi động. Tôi đi bộ nhẹ nhàng, rồi nhanh dần thành chạy,
rồi tăng tốc. Hết một vòng hồ, iPod chạy đến bài “Free your mind” của En Vogue.
Tôi đi chậm lại, lau mồ hôi đang tràn xuống mắt, gắng thở đều và ngắm mặt trời
lên. Bài hát vang bên tai nói cho tôi biết một quy tắc rất đơn giản nhưng không
phải ai cũng nắm bắt được. “Free your mind, and the rest will follow” – Hãy thả
lỏng tâm trí, những phần còn lại sẽ tự khắc noi gương.
Sau ngày đầu tiên, hai đùi tôi đau nhức, cơ thể tôi rã rời. Nhưng cảm giác
hạnh phúc khi vận động bằng tất cả sức lực dâng tràn trong tôi, tiết ra một chất
ma túy nội tại đẩy lùi cơn đau.
Tôi chạy bộ đều đặn mỗi ngày.
Và hiểu ra cách tốt nhất để thoát khỏi cơn đau là đối diện với nó.
Người khoa V
Tôi mua tặng Ni một quyển thơ Nhật cổ điển. Ni nhìn tôi ngạc nhiên.
‘Nhân dịp gì?’
‘Nhân dịp em đỡ đau đầu vì chăm chạy bộ, theo lời khuyên của chị’
Ni mỉm cười. Chị chăm chú lần giở từng trang. Rồi chị ngẩng lên nhìn tôi.
‘Đây là một món quà mạo hiểm.’
‘Em biết không phải ai cũng thích thơ Nhật cổ điển, nhưng cứ mạo hiểm thử xem
sao.’
‘Tôi thuộc khá nhiều bài có trong tuyển tập này.’ Ni nói ‘Cả tanka, hokku,
trường ca, thậm chí còn thuộc tất cả một trăm bài tanka trong cỗ bài Bách nhân
nhất thủ.’
Tôi nhìn Ni đầy bất ngờ.
Ni lại mỉm cười, giải thích.
‘Ngày xưa tôi cũng là người khoa Văn, giống như cậu.’
Thậm chí tôi còn chưa nói cho Ni biết mình từng học khoa Văn. Ni chẳng bao
giờ hỏi tôi đã làm gì. Tôi tưởng chị không quan tâm đến.
Chúng tôi chọn đề tài trò chuyện mới: Người khoa văn. Ni nhắc lại bốn câu thơ
không biết của ai, đã lưu truyền trong “giới khoa văn” từ lâu lắm. Tuy có xuất
hiện nhiều dị bản nhưng cũng chỉ khác vài ba chi tiết không đáng kể, còn lại thì
vẫn giữ tinh thần ca ngợi:
“Người khoa Văn chân tình lắm
Người yêu Văn nhân hậu nhiều
Cha mẹ dạy con mai lớn
Chọn người khoa ấy mà yêu”.
Ni bảo tôi thử biến tấu lại bài thơ đó theo ý mình. Tôi suy nghĩ một lát rồi
đọc:
“Người khoa Văn đa tình lắm
Người khoa văn ảo tưởng nhiều
Mẹ dặn mai này con lớn
Gặp thằng khoa ấy đừng yêu!”
Ni cười