
ời, một tấm lòng
cam nguyện bình đạm, một tấm lòng dễ dàng thỏa mãn, sẽ càng có được
nhiều hơn so với lòng dạ tham muốn hư vinh.
So với các vị Phật
sống khác, Tsangyang Gyatso được xem như là hạnh phúc, cuộc sống tự tại
mười lăm năm trời đã cho Ngài tự do vô tận. Ngài từng có hạnh phúc bình
dị nhất trên đời, từng có tình yêu tốt đẹp nhất đời người, những thứ
này, các vị Đạt Lai khác đều chưa từng có. Tsangyang Gyatso không phải
là một người tham luyến danh lợi, thế thì ngài nên thỏa mãn, thỏa mãn
với những thứ nhiều năm qua Ngài có được mà lãng quên những thứ Ngài mất đi. Chung quy thì Ngài khác với họ, từ khi thần bí mất tích bên hồ
Thanh Hải, Ngài đã định sẵn là một vị Đạt Lai thần kỳ nhất trong Phật
giáo Tạng truyền.
Dù chết hay ẩn tích, cuộc đời của ngài đều đặt
dấu chấm hết vào lúc hai mươi lăm tuổi. Nếu nhục thân của Ngài thật sự
chết đi năm hai mươi lăm tuổi, thế thì Ngài sẽ vĩnh viễn sống ở tuổi hai lăm. Nếu Ngài không chết ở hồ Thanh Hải, thế thì người giấu họ chôn tên kia trong truyền thuyết cũng chưa chắc đã là Ngài. Dù Ngài còn sống,
sinh mệnh được tiếp tục, cũng không còn là Tsangyang Gyatso trước hai
mươi lăm tuổi nữa. Ngài sẽ là một người khác, một người chúng ta xa lạ,
dù truyền kỳ của Ngài đang tiếp tục, Phật giáo của Ngài đang truyền
dương, nhưng người chúng ta ghi nhớ, mãi mãi là Tsangyang Gyatso trước
hai mươi lăm tuổi; thiếu niên tự do chăn thả tại làng núi nhỏ Monyu ấy;
vị Phật sống được trăm ngàn tín đồ triều bái trong cung Potala ấy; chàng lãng tử vui vẻ hát tình ca trên đường phố Lhasa ấy.
Suốt ba trăm năm nay, hàng ngàn người truy tìm trước đi sau nối, mục đích cũng chỉ
là tìm Tsangyang Gyatso lúc trước, Tsangyang Gyatso viết thơ tình,
Tsangyang Gyatso thân thể bị giam cầm, linh hồn luôn buông thả. Nhưng họ không từ bỏ thăm dò câu đố của hồ Thanh Hải, Tsangyang Gyatso đã là một câu đố, thê lương đi lại trên nhân thế, đến không nơi đến, đi chẳng nơi đi. Thế là, họ đã tin tưởng truyền thuyết, tin tưởng quyển "Bí truyện"
mà Ngawang Lhundrup Daji viết ra.
Biết bao người dưới ánh đèn bơ
vàng vọt lật giở thơ tình của Tsangyang Gyatso, lại lật xem "Bí truyện
Đạt Lai Lạt Ma thứ 6" của Ngawang Lhundrup Daji. Họ và tôi cùng tin như
nhau, trong lịch sử thật sự đã có một Tsangyang Gyatso, Ngài thật sự đã
sinh ra trên đất Tạng, Ngài thật sự đã đến hồ Thanh Hải, nhất định sẽ
lưu lại chút gì đó. Dù trốn vào giữa cỏ cây núi đá, ẩn chìm trong gió
sương mưa tuyết, nhất định vẫn có thể tìm kiếm chúng. Trong cõi u minh
sẽ có sắp xếp, chỉ dẫn bạn và tôi tìm được lời giải câu đố này vào một
ngày tình cờ nào đó.
Tình cảm đến lúc sâu sắc, luôn không tránh
khỏi một câu: "Vì sao phải để ta gặp được người?" Đúng vậy, nếu không có gặp gỡ, ta cũng chỉ là một hạt bụi đất bình thường, mỗi ngày đầu tắt
mặt tối vì cuộc sống, chìm nghỉm giữa biển người mênh mông. Vì có gặp
gỡ, tất cả bắt đầu thay đổi, đã có hướng đến và theo đuổi, đã có trách
nhiệm và gánh vác, đã có vui sướng và đau khổ. Do đó có lúc thà rằng cả
đời không cần gặp gỡ, thà rằng suốt đời không cần nắm tay, nhưng đời
người nếu không có gặp gỡ, lại sẽ buồn tẻ nhạt nhẽo biết nhường nào.
Chúng ta chưa từng gặp gỡ Tsangyang Gyatso, nhưng thường bởi xem thơ tình của Ngài mà gan ruột rối bời vì Ngài. Vô số lần tưởng tượng, sinh mệnh của
Ngài tuyệt đối sẽ không ngắn ngủi như thế, Ngài chắc vẫn có tương lai
rất dài, mang sứ mệnh của Phật sống, đi lại giữa nhân thế, phổ độ chúng
sinh. Đó là vì nhân sinh hữu tình, Ngài là tình tăng, Ngài đem tình cảm
truyền nhiễm cho người đời, đem vận mệnh giao phó cho năm tháng. Dù "Bí
truyện" của Ngawang Lhundrup Daji chưa chắc thật sự đáng tin, nhưng ông
đã kể cho chúng ta truyền kỳ nửa đời sau của Tsangyang Gyatso.
"Bí truyện Đạt Lai Lạt Ma thứ 6", còn có tên "Diệu âm Thiên Giới Tỳ Bà m".
Ghi chép những trắc trở của Đạt Lại thứ 6 Tsangyang Gyatso, tiếp diễn
truyền kỳ từ sau khi ngài biến mất ở hồ Thanh Hải. Tác giả là Ngawang
Lhundrup Daji người dân tộc Mông Cổ, ông tự xưng từ nhỏ theo Tsangyang
Gyatso xuất gia làm sư, học tập kinh Phật. Sau đó lại đến Tây Tạng
chuyên tu, tinh thông tiếng Tạng, tu tập Hiển Mật giáo pháp[1'>, do đó
trình độ Phật học cao thâm, trở thành bậc đại đức Phật giáo tính thông
Hiến Mật giáo pháp, ở khu vực Tây Tạng được tôn xưng là Lhazun
Pandita[2'>.
[1'> Mật giáo là một chi phái của Phật giáo Đại thừa,
hình thành vào khoảng thế kỷ thứ V tại Ấn Độ, có đặc trưng truyền thụ bí mật không cho phép công khai, và nội dung đầy thần bí, nên gọi là Mật
giáo. Các dòng phái Phật giáo khác trước và ngoài Mật giáo được gọi là
Hiển giáo.
[2'> Pandita: dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là học giả uyên bác.
Nghe nói Ngawang Lhundrup Daji là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye
Gyatso, là vị Phật sống chuyển thế đầu tiên sinh ra ở Alxa[3'>. Nhiều
tình tiết trong sách đối chứng lẫn nhau với sử ký và truyền thuyết dân
gian của các vùng Hán, Tạng, Mông, nhưng vì tường thuật của "Bí truyện"
quá đỗi thần kỳ, trên lịch sử lại không có các ghi chép chân thực khác
sau