
ánh tay vỗ liên tục như đang gọi mẹ nhưng
khi ngoảnh lại thì không có ai hết. Cho đến tận ngày thư tư. Buổi sáng
hôm đó, ngay khi ngủ dậy mẹ đi xuống nhà tắm và thấy một con chó đang
nằm cạnh bồn vệ sinh. Con chỉ biết giận mẹ và nói mẹ đối xử tệ với con
chó, nhưng con có biết đâu nó là con chó thường lang thang kiếm ăn ở
cạnh đường tàu, khắp mình ghẻ lở. Mẹ thấy thương hại mới mang nó về nhà
xích lại để chăm sóc cho nó. Vì nếu không nhốt, nó lại chạy đi đâu đó
rồi người ta sẽ bắt nó làm thịt cũng chưa biết chừng... Hôm đó nó không
hề động đậy. Ban đầu mẹ tưởng nó đang ngủ. Mẹ lay thế nào nó cũng không
dậy. Nó chết rồi. Mới hôm trước, nó vẫn ăn cơm ngon lành, cái đuôi vẫn
còn vẫy vẫy thế mà khi ấy đã chết, bộ dạng chẳng khác gì đang ngủ cả. Mẹ không biết bằng cách nào nó thoát được dây xích. Hồi đầu mới về nhà, nó gầy trơ xương. Được chăm sóc, nó béo ú lên, bộ lông càng ngày càng mượt bóng. Nó khôn lắm, ngay cả chuột chũi nó cũng bắt được.” Mẹ ngừng kể và thở dài. “Người ta nói rằng nếu cưu mang con người thì rồi sẽ thành ra
nuôi ong tay áo thôi, còn nếu cưu mang chó thì con chó sẽ báo đáp chủ.
Mẹ nghĩ nó đã đi thay mẹ.”
Lần này đến lượt cô thở dài.
“Mùa xuân năm trước, mẹ có tặng tiền cho một thầy tu đi ngang qua
nhà, ông ấy đã nói rằng trong năm nay gia đình chúng ta sẽ mất đi một
thành viên. Nghe những lời đó trong lòng mẹ rất lo lắng. Suốt cả năm
qua, mẹ không thôi nghĩ về lời nói ấy. Mẹ cứ nghĩ rằng thần chết sẽ đến
mang mẹ đi, nhưng bởi vì lần nào mẹ cũng bận vo gạo nấu cơm nên thần
chết đã bắt con chó thay thế.”
“Mẹ đang nói về cái gì thế? Suốt ngày mẹ đến nhà thờ mà lại đi tin
vào những lời đó à?” Cô chợt nghĩ đến cái chuồng chó trống không bên
cạnh nhà kho và cái dây xích đã nằm chỏng chơ trên mặt đất. Trong lòng
buồn bã, cô đưa tay ôm ngang hông mẹ.
“Mẹ đã đào một cái hố sâu trước sân để chôn con chó.”
Mẹ là người kể chuyện rất hay. Vào đêm trước hôm làm cơm cúng, bà bác và các thím thường mang sang một bát gạo. Thời đó lương thực thực phẩm
còn khan hiếm nên tất cả mọi người đều phải góp phần. Cúng đơm xong, mẹ
sẽ cho đầy cơm vào những chiếc bát đó để họ mang về nhà. Sau khi cúng,
với một dãy bát cơm đặt bên cạnh, mẹ kể với mọi người rằng có một đàn
chim đã bay đến đậu lên cơm một lúc rồi lại bay đi. Nếu họ không tin, mẹ sẽ bảo, “Tôi tận mắt nhìn thấy mà! Có sáu con cả thảy. Đàn chim chính
là các cụ nhà mình về ăn cơm cúng đấy!” Mọi người cười ầm lên, nhưng cô
lại nghĩ cô có thấy những vết chân trên bát cơm trắng ngần. Một lần, mẹ
mang theo một chút đồ ăn rồi ra đồng rất sớm, nhưng khi đến mảnh ruộng
của nhà, đã có ai đó đến trước và đang cắm cúi nhổ cỏ. Mẹ hỏi xem người
đó là ai, người đó nói chỉ là người qua đường, thấy ruộng nhiều cỏ quá
nên xuống nhổ giúp. Mẹ và người khách lạ cùng nhau nhổ cỏ. Buổi trưa, để tỏ lòng cảm kích mẹ chia phần cơm mang theo cho người đó ăn cùng. Cả
ngày hôm ấy mẹ cùng người khách lạ vừa cùng nhau nhổ cỏ vừa chuyện trò
huyên thuyên, đến tận khi trời tối mới chia tay nhau. Khi từ đồng về, mẹ kể chuyện cùng người khách lạ nhổ cỏ cả ngày cho bà bác nghe, bà bác
cứng đờ người, vội hỏi mẹ xem hình dáng người khách lạ đó trông thế nào. Rồi bà bác bảo mẹ, “Chắc là ông chủ cũ của mảnh ruộng đó rồi, ông ta đã chết vì say nắng khi đang nhổ cỏ trên mảnh ruộng ấy.” Nghe xong câu
chuyện, cô hỏi mẹ, “Ở trên đồng với một người đã chết cả ngày trời như
thế mẹ có sợ không?” Mẹ vui vẻ trả lời, “Sợ gì chứ. Nếu chỉ có một mình
nhổ cỏ phải mất hai ba ngày mới xong, nên mẹ chỉ thấy biết ơn ông ấy vì
đã giúp đỡ một tay thôi.”
Chứng đau đầu dường như đang dần gặm nhấm mẹ. Mẹ nhanh chóng mất đi
sinh khí và bản tính chan hòa, mẹ bắt đầu hay phải nằm nghỉ hơn. Thậm
chí mẹ còn không thể tập trung vào trò chơi bài cá cược một trăm uôn dù
đó là một trong những trò giải trí hiếm hoi của mẹ. Thêm vào đó, mẹ cô
cũng dần mất cảm giác với mọi thứ. Có lần, sau khi đặt nồi giẻ lau lên
bếp ga để đun, mẹ ngồi phịch xuống nền bếp và không thể đứng dậy được.
Nước bốc hơi hết khiến đống giẻ lau bốc cháy và cả gian bếp mù mịt khói, thế nhưng mẹ cô vẫn không thể tỉnh trí lại được. Ngôi nhà chắc đã cháy
rụi rồi nếu bác hàng xóm không nhìn thấy cột khói bốc lên và vội vã chạy sang xem chuyện gì đang xảy ra.
Có lần em gái cô - giờ đã là mẹ của ba đứa con - hỏi cô một cách
nghiêm túc về người mẹ đang bị chứng đau đầu hành hạ, “Chị có nghĩ mẹ
thực sự thích ở dưới bếp không?”
“Sao em lại hỏi vậy?”
“Chẳng hiểu sao em cứ nghĩ mẹ không thích ở dưới bếp.”
Em gái cô là dược sĩ, nó mở hiệu thuốc khi đang mang thai đứa con đầu lòng. Chị dâu cô chăm sóc đứa cháu đó, nhưng chị ấy sống cách xa hiệu
thuốc. Đứa bé sống với chị dâu cô suốt một thời gian dài. Rất thương con nhưng em gái cô phải trông hiệu thuốc nên chỉ được gặp con mỗi tuần một lần. Cảnh tượng em gái cô và đứa con tạm biệt sau những lần gặp nhau vô cùng cảm động. Chẳng có cuộc chia tay nào buồn bã hơn thế trên đời.
Nhưng trong hoàn cảnh đó dường như em gái cô gặp nhiều khó khăn hơn đứa
trẻ. Đứa trẻ thích ứ