
đó giảng bài. Từ “cho phép” ấy khiến cô mủi
lòng. Những người khiếm thị muốn đọc sách của cô, họ xin cô cho phép làm lại cuốn sách của cô bằng một thứ ngôn ngữ chỉ họ mới hiểu được... Nghĩ đến đây cô thấy lòng lặng đi, liền đáp vội, “Được chứ.” Người thủ thư
nói cuốn sách sẽ được hoàn thành vào tháng Mười một vì tháng này có
“Ngày Chữ nổi”. Ông nói họ sẽ rất cảm kích nếu hôm đó cô có thể tới tham dự buổi lễ ký tặng sách. Cô tự hỏi sao mọi chuyện lại diễn ra như thế
nhỉ, nhưng cô chẳng nói được gì hơn ngoài câu “Được chứ.” Cũng may bấy
giờ mới đầu xuân nên cảm giác như tháng Mười một còn xa lơ xa lắc. Nhưng thời gian trôi đi, xuân qua, hạ tới, thu về, chẳng mấy chốc đã sang
tháng Mười một. Và rồi ngày đó cũng đến.
Mọi việc trên thế gian đều có thể dự đoán được nếu ta suy nghĩ thật
sâu sắc về chúng. Ngay cả những việc ta gọi là khác thường, nếu suy nghĩ thấu đáo thì chúng cũng chỉ là những việc đương nhiên xảy ra. Thường
thường do ta không suy nghĩ kỹ nên mới gặp những chuyện ngoài ý muốn.
Chuyến đi tới Thư viện chữ nổi và những sự kiện xảy ra ở đó đều là những việc có thể dự đoán được nếu cô bỏ thời gian quan tâm đến Thư viện chữ
nổi ấy. Nhưng cô đã quá bận rộn suốt mùa xuân, mùa hạ, mùa thu. Ngay cả
ngày tới Thư viện chữ nổi, cô cũng không nghĩ về những người mình sẽ gặp gỡ ở đó; cô chỉ lo trễ cuộc gặp lúc mười giờ. Cô bay chuyến tám giờ,
đáp xuống sân bay thành phố P, vội vàng bắt taxi đến Thư viện chữ nổi
rồi ngồi chờ trong phòng khách. Với sự giúp đỡ của một tình nguyện viên, ông giám đốc thư viện bước vào phòng khách và ngồi đối diện với cô. Ông giám đốc cảm ơn cô vì đã dành thời gian đến đây, ông tự giới thiệu và
chìa tay ra. Cố che giấu sự căng thẳng, cô bắt tay ông giám đốc thư viện và vui vẻ cất tiếng chào ông. Bàn tay ông ấy thật mềm mại. Ông giám đốc thư viện trò chuyện về cuốn sách của cô cho tới tận khi diễn ra sự
kiện. Cô mỉm cười gật đầu với người đàn ông khiếm thị đã đọc tác phẩm
của cô, dù ông không thể nhìn thấy nụ cười và cái gật đầu của cô.
Hôm đó là Ngày Chữ nổi, ngày hội của họ. Khi cô bước vào trong hội
trường, có khoảng 400 người đã ngồi ở đó, một số khác đang dò dẫm bước
vào theo sự hướng dẫn của các tình nguyện viên. Có cả nam cả nữ ở mọi
lứa tuổi, nhưng không có trẻ em. Buổi lễ được bắt đầu, lần lượt một vài
người trong ban tổ chức bước lên sân khấu tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu và chuyển lời cảm ơn. Một số người được trao giấy chứng nhận. Khi
sách của cô xuất bản bằng chữ nổi được giới thiệu, cô bước lên sân khấu
để nhận một cuốn. Ông giám đốc thư viện trao quyển sách cho cô, nó dày
gấp hai lần quyển sách bình thường nhưng rất nhẹ. Cô nghe thấy tiếng vỗ
tay, sau đó cô cầm quyển sách trên tay đi xuống chỗ ngồi. Buổi lễ vẫn
tiếp tục. Khi ban tổ chức đang trao giải thưởng cho những người đọc được nhiều sách chữ nổi, cô mở quyển sách ra xem. Bỗng nhiên cô cảm thấy
choáng váng, có vô số dấu chấm nhảy múa trên trang giấy trắng. Cô có cảm giác như thể mình bị rơi vào hố đen, như thể bị lăn xuống cầu thang vì
bước hụt do mải nghĩ mông lung trong khi bản thân luôn cho rằng mình đã
quá quen thuộc với cái cầu thang đó. Chữ nổi dàn trải ra trên giấy
trắng, mỗi chữ là một loạt cái lỗ khắc bằng kim, những con chữ cô hoàn
toàn không giải mã nổi. Cô nói với mẹ rằng cô giở qua trang thứ nhất,
trang thứ hai, trang thứ ba rồi gấp quyển sách lại. Thấy mẹ đang rất
chăm chú lắng nghe câu chuyện của mình, cô kể tiếp. Cuối buổi lễ, cô
bước lên sân khấu đứng trước mọi người để nói về tác phẩm của mình. Cô
đặt quyển sách trên bục rồi nhìn xuống mọi người, lưng cô cứng đơ ra.
Đứng trước hơn bốn trăm người khiếm thị, cô lúng túng không biết nhìn
vào đâu.
“Vậy con đã làm thế nào?” mẹ cô hỏi.
Cô nói rằng với cô năm mươi phút đó tưởng chừng như dài vô tận. Cô
thuộc típ người thích nhìn thẳng vào mắt người đối diện trong khi nói
chuyện, tùy theo cảm xúc trong ánh mắt của đối phương, cô sẽ quyết định
nói hết chuyện hay bỏ dở giữa chừng. Trước một vài ánh mắt nào đó, những câu chuyện cô chưa từng kể với ai lại bỗng tuôn trào. Cô băn khoăn liệu mẹ có biết tính cô như vậy. Trước bốn trăm người khiếm thị cô không
biết nhìn vào mắt ai và bắt đầu câu chuyện như thế nào. Trong số họ, có
những đôi mắt đã nhắm lại, có những đôi mắt nửa nhắm nửa mở, có những
đôi mắt ẩn sau cặp kính râm, có đôi mắt lại trừng trừng như thể nhìn
xuyên thấu cả con người lẫn sự căng thẳng của cô. Trước những đôi mắt
đang hướng lên sân khấu nhưng không thể nhìn thấy gì, cô trở nên im
lặng. Cô phân vân liệu có ý nghĩa gì không khi nói về cuốn sách của mình trước những đôi mắt khiếm khuyết ấy. Nhưng sẽ không ổn nếu cô nói
chuyện gì đó khác, kiểu như những giai thoại về cuộc sống. Cô nghĩ rằng
mình không nên kể giai thoại cho họ nghe, mà họ nên kể cho cô những câu
chuyện cuộc đời họ mới phải. Cảm thấy bế tắc, cô cầm micro lên hỏi mọi
người, “Tôi nên kể chuyện gì với các bạn bây giờ?” Cả hội trường cười ầm lên. Có phải họ bật cười bởi vì họ nghĩ ý cô là cô có thể kể bất cứ
chuyện gì? Hay họ