
u năm, rồi cũng đến lúc quốc
lực yếu suy, vương quyền hủ bại, thối nát từng ngày. Cũng trong lúc đó, ở bên kia đại dương, phong trào văn hóa Phục Hưng xuất hiện, rầm rộ dâng
cao, lan ra bảy nước, đồng thời rùng mình từ quốc gia phong kiến chủ
nghĩa chuyển biến thành tư bản chủ nghĩa.
Theo sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật
hàng hải, những người đủ mọi màu da màu tóc từ các nước xa lạ ấy đổ lên
Đại Lê, vén lên bức màn thần bí của miền đất này.
Đồng thời, sự giàu có của nó khiến cho bọn họ thèm thuồng đến chảy dãi.
Tuy nhiên, Đại Lê nhất mực thực hiện
chính sách bế quan tỏa cảng, có điều những công sự đã mục nát ấy làm sao địch nổi với thuyền kiên pháo lợi của ngoại nhân.
Hoàng thất Đại Lê bán nước cầu vinh, cắt đất bồi thường, tận tình ton hót, xiểm nịnh dị quốc.
Trong lúc quốc gia nguy cấp tồn vong,
những chí sĩ yêu nước đã đoàn kết đồng lòng, điều trước nay chưa từng
xảy ra, một cuộc khởi nghĩa đại quy mô trong chớp mắt quét sạch toàn
quốc.
Cơ yếu như kinh sư trọng địa, đến tận hương thôn thung lũng xa xôi, nơi nơi đều thấy bóng dáng quân cách mạng.
Dưới quyền thống lĩnh của vị cha già Tôn
trọng Khải, quân cách mạng kết hợp tấn công, Đại Lê và quân đội ngoại
quốc thảm bại, bức bách Hoàng đế cuối cùng của Đại Lê – Hoành Viễn đế –
thoái vị, cùng lúc thành lập Quốc thống phủ Hoa Hạ, thực hiện chế độ tam quyền phân lập.
Có nghĩa là, ba quyền lớn nhất về hành
chính, lập pháp và tư pháp sẽ nằm trong tay ba đơn vị tương đương bên
ngoài Chính phủ, vừa tương hỗ vừa độc lập, nương tựa, hỗ trợ lẫn nhau
bảo đảm công bằng xã hội.
Muôn dân một lòng, tường đồng vách sắt, dân tộc vĩ đại, khiến những kẻ ngoại lai không thể không nhượng bộ.
Vậy mà, từ lúc Tôn Trọng Khải lâm bệnh qua đời, chính quyền Quốc thống phủ một lần nữa chia năm xẻ bảy.
Trên danh nghĩa, các đại quân phiệt đều
ủng hộ địa vị lãnh đạo của Quốc thống phủ, nhưng thực chất chỉ là chăm
chăm chiếm đất xưng vương, bất quá, ai nấy đều tự hiểu mà không nói
thẳng ra mà thôi.
Trong đó, quyền lực cường mạnh nhất nằm
trong tay Đông Bắc vương Phương Động Liêu cùng người đứng đầu Quốc thống phủ – Tổng thống Dư Nghi Trì.
Năm 1928 Công nguyên, Đông Bắc vương Phương Động Liêu vui mừng đón quý tử mới sinh, đặt tên là Quân Càn.
Dư Nghi Trì đến mừng đầy tháng nghe vậy
thì giật mình thất kinh: “Phương Quân Càn? Chẳng phải trùng tên với
Thiên cổ thánh quân Hoàn Vũ Đế đó sao?!”
Đồng âm bất đồng tự, Dư tổng thống rõ ràng đã hiểu nhầm rồi.
Phương Động Liêu nghe thấy thế bèn ha hả
cười, tính ông vốn hào sảng khoát đạt, cũng lười đính chính, thế nên
phóng lao theo lao, đổi tên đứa con yêu dấu thành ‘Quân Càn’. (1)
Sau này, Dư Nghi Trì biết được đầu đuôi
sự việc không khỏi trêu đùa: “Hoàn Vũ Đế xuất hiện rồi, không biết Vô
Song công tử có chuyển thế đầu thai luôn không.”
Vậy là, cố sự của chúng ta, lại một lần nữa nảy sinh từ đó…
Năm 1935, tiểu thiếu gia nhà họ Phương dù chỉ mới bảy tuổi cũng đã có bản lãnh làm cho Phương phủ từ trong ra
ngoài thất thanh náo loạn, chó sủa gà bay.
Mùa thu, Đông Bắc vương Phương Động Liêu cùng quý tử đến Bình Đô, hai cha con tạm trú vài ngày ở tư gia ông bạn già Dư Nghi Trì.
Bình Đô là thủ đô nước Hoa Hạ.
Sau khi Đại Khuynh Hoàn Vũ đế băng hà,
Văn Thành đế lên kế vị đã dời đô về Bát Phương Thành, đổi tên thành
‘Bình’ để kỷ niệm công lao bất hủ của huynh trưởng Hoàn Vũ đế đã từ nơi
đây kiến tạo đại nghiệp, bình định tứ hải.
Nhưng đến Vũ lịch năm thứ 240, loạn Lưu
Hà bùng nổ ở phương Bắc, cả miền Tây Bắc rúng động bất an, Thụy An đế
Phương Tự Minh không thể không lần nữa dời đô, trở về Hoàng thành cũ ở
phương Nam.
Dưới thời Diên triều của Gia Hà Thị,
chính sách củng cố thống trị khiến văn tự ngục (1) đại hưng, số lượng
văn vật điển tịch trân quý bị thiêu hủy lên đến hơn năm mươi vạn kiện.
Đến lúc Hoàng thành lâm nguy, dân tộc du mục trước khi tháo chạy còn cố châm lửa hỏa thiêu toàn thành.
Lửa cháy rừng rực, liên tục ba ngày ba đêm, cả bầu trời Hoàng đô bao trùm một màu đỏ máu.
Kinh đô nghìn năm rốt cuộc, tan thành tro bụi.
‘Hãn vương’ Cố Phượng Lâm lật đổ Diên triều, định đô tại Bình thành.
Đến thời Ngũ phiệt tao loạn, năm gia tộc lớn tự chiếm đất xưng vương, mạnh ai nấy làm, kinh đô cũng nhiều lần bị dời đổi.
Đại thế thiên hạ, phân lâu lại hợp, vương triều Đại Lê thống nhất Ngũ phiệt tiếp tục chọn Bình thành làm kinh đô. Dưới thời này, nhờ công trình đại bành trướng quy mô, mới hình thành
nên Bình Đô khí thế tráng lệ, rộng lớn như hiện tại.
Bình Đô, cũng chính là Bát Phương Thành thuở xưa ấy.
Cậu bé bảy tuổi Phương Quân Càn có vẻ đặc biệt thích thú nơi này.
Vừa đến Bình Đô, ngồi chưa ấm chỗ đã vội lẻn khỏi Phủ Tổng thống, chạy ra phố la cà khắp chốn.
Cũng khó trách cậu nhóc.
Bắt một đứa nhóc suốt ngày chết dí trong phòng thì đúng là lấy mạng nó đi cho rồi.
Huống chi, lại còn là viên minh châu trân bảo trên tay Đông Bắc Vương…
Thiên tính ham chơi, lanh lợi, hiếu động, không thích gò bó.
Được được, nếu quả thật chỉ có tính tình
nghịch ngợm phá phách thôi, người lớn còn có cách đ