
g
teo lui cui rót vài giọt đen sệt vào vỏ sò, thận trọng như một chủ hiệu
kim hoàn cân vàng trên cân tiểu ly- vì đây cũng là vàng. Một a xẩm mang
vỏ sò vàng đen ấy đến tận nơi Hai Vĩnh nằm. Anh ra dấu bảo a xẩm làm
thuốc cho mình. Với ngón tay điêu luyện, ả điều khiển các giọt đen sệt
ấy trên ngọn đèn dầu như một nhà ảo thuật. Không mấy chốc, dọc tẩu đã
nạp. Hai Vĩnh rít một hơi. Khói thơm từ mũi phả ra cuồn cuộn. Anh có cảm tưởng như thoát trần, thân xác nhẹ nhàng như bay bổng trên mây. Làm đủ
một cặp, thấm thuốc anh nằm đê mê, nửa say nửa tỉnh. Bao nhiêu ưu phiền, nghèo túng, thất tình đều bay theo làn khói về chốn hư vô. Anh nằm như
thế không biết bao lâu cho đến lúc đồng hồ Oét-min-tơ thong thả đổ
chuông rồi gõ chín tiếng. Bỗng nhiên Hai Vĩnh thấy tỉnh táo, minh mẫn
hơn bao giờ hết. Cuộc sống trần tục trở lại với anh: "Ngày mai mình sẽ
tiếp tục kéo cày. Ôi chao, chán làm sao cái kiếp làm công trong cái nhà
máy tối tăm bụi bặm! Và không còn gặp lại "cố nhân" mỗi tháng một lần
vào ngày nước rong để an ủi kiếp sống cô đơn!".
Hai Vĩnh mơ ước có được một cỗ xe ngựa như Bảy Rô để tự làm chủ lấy mình.
Nhưng éo le thay, Bảy Rô lại không ý thức được mình là kẻ có hạnh phúc mà còn "đứng núi này trông núi nọ".
Phải làm gì đây? Bốn tiếng ấy như một điệp khúc cứ đáo đi đáo
lại trong đầu. Đi theo con đường nào? Nhất định không thể phiêu lưu vào
con đường đỏ đen như Bảy Rô. Cũng không thể đi theo mấy ông làm quốc sự. Bỗng một ý nghĩ lóe ra như tia chớp. Hai Vĩnh reo lên: "Phải rồi! Ta
phải làm anh chị". Cái nghề làm anh chị dễn đến cuộc sống lý tưởng, vừa
hào hùng, vừa phong lưu. Tự nhiên Hai Vĩnh nghĩ tới Ba Dương, nhà ở bên
này cầu Rạch Đỉa, cách nhà Bảy Rô chừng trăm thước. Trước đây Ba Dương
cũng là tay làm hàm nhai, chuyên nghề chăn vịt, cái nghề mà có lần Hai
Vĩnh đã đắn đo suy tính. Nghề này chỉ làm có ba tháng cuối năm mà có
tiền đủ xài, quanh năm.
Đầu tháng mười, ta đi mua vịt con. Một người có thể chăn hai
ba ngàn con. Ta chỉ tốn thức ăn một tháng đầu. Đến tháng mười một, vịt
đã bằng bắp chân, đã mọc lông cánh. Lúc đó cũng là mùa gặt. Ta cứ thả
vịt lên những cánh đồng đã gặt, còn mình thì chỉ cần một ngọn sào và mấy chiếc phên để đêm đêm quây cho vịt ngủ ngoài đồng. Cứ thế mà làm, hết
cánh đồng này ta sang cánh đồng khác. Lùa vịt ăn rong như thế trong hai
tháng. Đến ngày giờ đã định, tay quây đàn vịt sát bên đường đắp. Vợ gọi
chủ vựa Chợ Lớn đem xe tới chở. Thế là vợ chồng đề huề lên xe về nhà
chuẩn bị ăn Tết. Ba Dương nhờ nghề chăn vịt ấy mà đi khắp nơi, từ Nhà Bè qua Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công... Đến đâu, học võ tới đó. Bao nhiêu
ngón nghề hay của các thầy võ nổi tiếng ở các nơi, Ba Dương đều quyết
tâm học lấy. Và học tới đâu anh truyền lại cho đám em út. Nhờ vậy mà khi trụ bộ tại cầu Rạch Đỉa, Ba Dương đã nổi tiếng là tay giang hồ hảo hớn, dưới tay có cả trăm em út. Thiên hạ đua nhau tới học nghề. Đêm nào sân
nhà Ba Dương cũng có nhiều người dượt võ thật sôi nổi hào hứng. Ba Dương không lấy học phí cao.
Cuộc sống phong lưu của anh nhờ vào mối khác. Đó là nghề anh chị.
Với tiếng tăm như cồn, anh trở thành một tay anh chị trong
vùng. Các du đãng chuyên nghề trộm, cướp đều tôn anh lên hàng "đại ca".
Từ đó những ai bị cướp đều nhờ anh can thiệp. Thường là chỉ trong ngày
ấy, khổ chủ đã được hoàn lại đầy đủ những món đã mất. Dần dần Ba Dương
trở thành một sở bảo hiểm "tú rít" mà không phải xin "pa-tăng" 1, khỏi lập văn phòng với bộ máy nhân viên rườm rà tốn kém. Ghe chài chở
gạo, chở heo từ lục tỉnh bị cướp trên đường về Chợ Lớn, thương lái cứ
đến cầu Rạch Đỉa nhờ Ba Dương một tiếng là xong ngay...
Hai Vĩnh đã tìm được con đường. Anh nhất định bỏ nhà máy để đi giang hồ. Anh sẽ tìm thầy luyện thêm võ nghệ. Trước đây, anh đã từng bỏ nhà đi hoang: một ông bầu cải lương điên đầu vì nạn "cọp" và du đãng đã nhờ Hai Vĩnh làm "tiền đạo". Gánh hát định tới làng xã nào thì Hai Vĩnh tới trước, lo thủ tục với làng lính để các đêm hát xướng được êm đẹp
vui làng, vui tổng. Nhờ có khiếu ăn nói mềm mỏng và khi cần, không ngại
dùng võ lực, Hai Vĩnh hạn chế được nạn "cọp" và ẩu đả xảy ra hàng đêm
trước đó. Ba năm lưu lạc, ăn uống phủ phê, cà phê, thuốc lá, nhưng nghĩ
tới cha mẹ nghèo khổ, đàn em nheo nhóc, anh đành trở về thú tội với cha
mẹ và an phận với cuộc sống làm công nhà máy xay cho tới nay. Bây giờ
thì Hai Vĩnh nhất định tái xuất giang hồ để tạo dựng tương lai...
Đúng vào lúc ấy, Bảy Rô tông cửa gió lao vào như một cơn lốc:
- Hai Vĩnh đâu?
Tiếng hét của Bảy Rô to quá khiến mấy ông khách đang mơ màng trong khói thuốc giật mình ngóc đầu dậy. Á xẩm lật đật chạy tới:
- Nho nhỏ vậy, xếnh xáng
Hai Vĩnh vội vàng xỏ giày, mặc áo:
- Thua hết rồi phải không?
Bảy Rô quạu đeo:
- Ăn thua là chuyện thường. Đằng này mình bị thằng Ba Tần đánh lận vét hết tiền mới đau chớ.
Hai Vĩnh kéo Bảy Rô ra ngoài:
- Có chắc là nó đánh lận không?
- Chắc chớ! Bài nó làm dấu hết mà mình không biết! Bộ bài mình mới mua trong tiệm, vậy mà nó làm dấu hồi nào mới tài chớ!
Ha