
Lớn cho có bạn với Lỗ
Đạt đời nay.
Thế là cuộc phiêu lưu của Bảy Rô tạm thời chấm dứt tại một tòa nhà có vòng rào kiên cố và rộng gấp mười biệt thự của vua cờ bạc Sáu
Ngọ. Tòa nhà nổi tiếng này tọa lạc tại số 69 đường Lagrandière
(La-răn-de) thường được gọi là Khám Lớn. Nó nằm giữa trung tâm thành phố Sài Gòn hoa lệ, sát bên pháp đình, nhà hình và dinh thống đốc Nam kỳ.
Bước chân vào ngôi nhà mới, Bảy Rô nhớ Hai Vĩnh hơn lúc nào
hết. Nhớ bữa tiệc tại Nghi Xuân Lầu, nhớ lời khuyên rút từ bài học thuộc lòng sách Quốc văn giáo khoa thư. Anh lẩm bẩm ngâm:
" Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn..."
Sau đêm nằm tiệm thuốc đường Lơ-pheo, Hai Vĩnh bỏ nhà máy xay lúa cất
bước giang hồ, anh nghĩ bụng: "muốn làm anh chị, trước nhất phải làm chủ lấy mình, không thể làm tôi mọi thiên hạ". Tin Bảy Rô "vô Khám Lớn"
khiến anh buồn mấy ngày.
Anh thương Bảy Rô vì hai người cùng tuổi, cùng một ý chí muốn
vươn lên thoát khỏi sự trói buộc của nghèo túng. Nhưng Bảy Rô đã đi sai
đường. Giờ đây nằm khám, Bảy Rô có thì giờ suy gẫm và lời khuyên bảo của anh trong đêm ăn nhậu tại Nghi Xuân Lầu...
Hai Vĩnh đi khắp nơi, la cà các bến tàu, bến xe tìm hiểu cung
cách làm ăn của các tay anh chị. Cái nghề đứng bến không có sách vở nào
dạy, các tay anh chị cũng không tốt nghiệp trường nào. Đành phải học nơi trường đời thôi. Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, nơi nào cũng có người xưng hùng xưng bá, dưới tay có một số em út sẵn sàng đổ máu theo hiệu lệnh
của đàn anh. Tay anh chị đầu tiên Hai Vĩnh tới làm quen là Ba Dương, nhà ở bên này cầu Rạch Đỉa, gần nhà Bảy Rô. Từ lâu nghe danh nhưng Hai Vĩnh chưa có dịp tiếp xúc. Lần gặp gỡ đầu tiên, Hai Vĩnh khám phá được nhiều điều bổ ích. Ba Dương lớn hơn anh chừng một con giáp, khoảng băm lăm,
người tầm thước, tánh tình nghiêm nghị, ít nói. Anh em trong nhà ít khi
nói chuyện với anh quá ba câu. Điều làm Hai Vĩnh ngạc nhiên hơn hết là
thái độ lễ phép của Ba Dương. Luôn luôn anh "dạ, thưa" với mọi người
cùng trang lứa. Thì ra muốn làm anh chị không nhất thiết phải "hét ra
khói, nói ra lửa" như những tay đao búa ở các bến xe đò. Điều căn bản là tài đức phải đi đôi. Có tài mà không có đức thì tài đó sẽ không thọ.
Tìm hiểu sâu hơn, Hai Vĩnh được biết Ba Dương là người lạc quan và kiên
trì. Trong những năm đi chăn vịt khắp miền đồng ruộng Nhà Bè, Cần Guộc,
Cần Đước, Gò Công, Ba Dương không hề ngán ngại gian khổ mà lấy làm vui
thú trong cảnh điếm cỏ cầu sương, hòa lòng với tiếng hò trên sông nước.
Tới đâu anh giao du tới đó và mỗi khu nghe ông thầy võ nào có ngón gia
truyền là lùa vịt tới nơi làm quen. Nhờ vậy mà thầy của Ba Dương rất
nhiều. Nổi tiếng nhất là ông Ba Thi ở Chợ Lớn, ông Sáu Lầu ở Bình Chánh, Nhà Bè và ông Bộ Dực ở Bến Tre. Hai ông trước giỏi quyền cước, ông sau
cùng sở trường roi, siêu...
Người anh chị thứ hai mà Hai Vĩnh định tới học hỏi là ông Tám
Mạnh ở Chánh Hưng. Từ Long Kiểng qua Chánh Hưng không xa mấy, nhưng anh
cứ ngần ngại mãi vì... cô Tư Xóm Cỏ. Anh không muốn khơi lại vết thương
lòng. "Có lẽ giờ này cô nàng đã nghiễm nhiên là cô thông, cô ký, chân
dép, chân giày rồi". Thế rồi một hôm, anh gặp Chín Phải tại một quán
nước dưới dốc cầu Chữ Y. Chín Phải là thanh niên ở cầu Rạch Bàng, quen
biết với anh qua vài lần đi chà gạo tại cầu Rạch Đỉa. Bảy Rô bị bắt
không bao lâu thì Chín Phải cũng bị bắt về tội đánh tên điền chủ Tám
Long.
- Ủa, Chín Phải, mãn tù hồi nào vậy chú?
Chín Phải kêu thêm một cái "hắc quảy" và vài điếu Cô-fát, vui vẻ kéo ghế mời Hai Vĩnh:
- Anh Hai, em chỉ bị có hai ngày tù thôi, nhưng phải bỏ làng vì sợ tụi nó ám hại...
- Đầu đuôi như thế nào?- Hai Vĩnh tò mò hỏi.
- Chuyện như thế này nè... Hôm đó trời mưa giông, chừng tạnh
mưa, em ra ruộng kéo vô mấy nhánh chà bầu. Đi ngang qua nhà Tám Long,
thấy nó sửa soạn đi đâu mà ăn diện dữ quá. Em men lại gần, thấy nó mặc
áo long đoàn, quần xuyến trắng, khăn nhiễu đen, đi giày mã vĩ. Em vô
tình đi quá gần nên nhánh chà quẹt một vết bùn lên ống quần của nó. Nó
hét lên: "Đồ đui! Ông nội mày đứng đây, không thấy sao mà làm dơ quần?". Bị chửi bất thình lình, em đứng nhìn nó trân trân. Nó tưởng em dám cự
lại, càng làm dữ: "Mày còn nghinh nữa hả? Tao chửi tới thằng cha mày đây nè, thứ đồ quân bất lương, đẻ con không biết dạy!". Sợ nó chửi um xùm,
em kéo riết nhánh chà về nhà. Nhưng ông già em đã đứng chực trước sân.
Ông bắt em kể đầu đuôi rồi nghiêm nghị bảo: "Vậy rồi mày làm thinh! Cha
mày theo Thiên địa Hội, dám đòi Tây trả nước, thằng Tám Long bất quá là
một thằng điền chủ, tại sao mày lại sợ nó? Tao đã từng dạy mày là "ninh
thọ tử bất ninh thọ nhục". Bây giờ mày phải trở lại trị nó.
Mau lên, nó hãy còn đứng đó". Em cắm đầu chạy. Nghe tiếng bà
già gọi giật ngược, em khựng lại nhưng ông già khoát tay biểu tiếp tục.
Thằng Tám Long thấy bộ vó em hầm hừ, toan quay vô nhà nhưng không kịp.
Em đã bay tới phóng một đá song phi khiến nó té văng xuống ruộng, la
làng chói lói, em trở về nhà, ăn chưa xong bữa cơm thì làng lính tới
còng tay đ