
ổ kính của nó. Tôi không ưa được những nhà thờ tân tạo
với kiến trúc đồ sộ và trang hoàng rắc rối. Tôi có cảm tưởng người ta khó mà tìm
thấy đức tin ở một nơi đồ sộ và rắc rối như thế.
Bên trong nhà thờ không rộng lắm, chỉ vừa đủ kê hai dãy ghế dành riêng cho
nam và nữ tín đồ. Trên tường có treo những bức tranh tả lại cuộc đời của Chúa,
lồng trong những khung kính cũ mờ. Cha cả đang giảng kinh ở bục cao. Cha nói về
sự hy sinh của Chúa để cứu vớt nhân loại và cha mong các tín đồ hay cố gắng noi
theo gương sáng của ngài, để giúp con người bớt đau thương. Khi cha giảng xong,
mọi người quỳ gối xuống và bắt đầu đọc kinh. Tôi không thuộc kinh, không biết
làm dấu thánh, nên lẳng lặng ngồi im nhìn tượng Chúa đóng đinh trên thập giá
bằng gỗ nâu bóng.
Ðiện trong nhà thờ không quá sáng. Bóng tối còn ẩn nấp ở gầm ghé và lảng vảng
ở khung cửa sổ mở ra một khu vườn rộng. Chúa đã phán “Ta là ánh sáng”. Nhưng
cũng may, các tín đồ của Ngài không để nơi thờ phụng sáng rực, như một ngọn đèn
néon cực mạnh. Người ta đã biết giữ lại bóng tối để giúp con người dễ tạo đức
tin và dễ cảm thấy khát khao ánh sáng.
Bài kinh chấm dứt, các tín đồ ngồi lại ngay ngắn trên ghế. Tiếng phong cầm
đột nhiên vang lên cùng lúc với tiếng đồng ca của các em gái mặc áo dài trắng.
Tiếng đàn nghe thánh thót như những giọt mưa đầu mùa và đôi lúc trầm ấm như ngọn
gió mùa Xuân. Chiếc phong cầm thực sự đã mê hoặc tôi và tôi quay lại nhìn nó
bằng đôi mắt trìu mến.
Nó nằm đó, sát một góc nhà thờ, phía bên trái cửa ra vào, lẫn trong bóng tối,
nhưng tôi vẫn nhìn thấy nó rõ ràng. Toàn thân nó tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ
như hào quang ở đầu các thiên thần và có lẽ chỉ mình tôi nhìn thấy điều đó. “Hãy
tìm sẽ thấy”. Tôi tin rồi Chúa sẽ mặc khải cho tôi, đức tin sẽ đến với tôi từ
chiếc phong cầm cũ kỹ kia chứ không phải từ lời giảng dạy của cha cả đã vang lên
đều đều qua máy phóng thanh.
Tiếng phong cầm ngưng. Buổi lễ đã xong và mọi người lặng lẽ ra về. Ðiện trong
nhà thờ tắt hết, chỉ còn hai bóng đèn nhỏ màu vàng đục cháy sáng ở đầu hai cây
nến đặt trên bệ thờ. Tôi nghe có tiếng cửa đóng nhẹ, nhưng vẫn ngồi im trên ghế.
Tự nhiên tôi linh cảm hãy kiên nhẫn đợi chờ thêm chút nữa, rồi tôi sẽ thấy điều
tôi bằng khát khao tìm kiếm. Tôi nhìn chăm chăm vào tượng Chúa như bị thôi miên
và miệng lẩm bẩm : “Lạy Chúa! Ngài đã nói “Ta là ánh sáng” nhưng sao mắt Ngài
lại đầy bóng tối? Ôi! Nếu Ngài còn nói thêm “Ta cũng là bóng tối”, chắc con đã
quì gối phủ phục dưới chân Ngài”.
Cơn mệt mỏi ùa chiếm thân thể, tôi uể oải đứng dậy, tôi ngạc nhiên thấy vị sư
huynh trẻ tuổi vẫn còn ngồi bên chiếc phong cầm. Tôi gật đầu chào anh. Anh chào
lại và mỉm cười.
- Ông đã cảm thấy mệt mỏi?
Tôi e thẹn đáp.
- Vâng, nhưng anh cũng biết tôi chẳng thể ngồi một mình ở đây lâu hơn
nữa.
- Không sao, nếu thích, ông vẫn có thể ngồi lại. Người coi nhà thờ đã đi
nghỉ, tôi sẽ đợi ông và đóng cửa sau.
- Như thế thật phiền. Chắc anh cũng có nhiều việc cần làm sau buổi lễ.
- Tôi làm việc rất khuya. Chúng ta có thể nói chuyện với nhau được chứ?
Thấy sư huynh trẻ chuyện trò cởi mở, tôi vui vẻ nói cho anh biết tôi là một
người ngoại đạo và đang đi tìm đức tin. Tôi cũng xin lỗi không biết gọi anh bằng
gì, gọi “ông” như thế khó nghe quá. Anh nói : “Thôi chúng ta cứ gọi nhau bằng
“anh” cho tiện”. Rồi anh kể anh là người Bùi Chu đi tu từ nhỏ, di cư vào Nam
sống ở Biên Hòa và ra đây ở đã được ba năm.
Con chiên ở đây rất ít nên anh đều quen mặt. Ngay khi tôi bước vào nhà thờ
lúng túng tìm một chỗ ngồi, anh đã nhận ra tôi mới tới đây lần đầu và không phải
là tín đồ Thiên Chúa giáo. Anh cũng đoán được tôi là người đang đi tìm đức tin.
Ðức tin thật khó đến với một người ở tuổi tôi, nếu không có ai hướng dẫn.
Tôi nói, tôi muốn tự mình tìm kiếm đức tin dù có khó khăn. Tôi không thích
nhờ vả bất cứ ai, ngay cả giáo lý. Tôi đã chán nghe lời giảng của các cha và
cũng chán đọc những quyển sách kinh. Tôi tin một ngày nào đó Chúa sẽ nhắn nhủ
tôi không phải qua một pháp lạ kỳ bí, mà có thể qua tiếng chuông nhà thờ đổ mỗi
chiều hay qua tiếng đàn phong cầm mà anh đánh mỗi tối.
Vị sư huynh cười đáp :
- Anh đừng tin vào tiếng đàn của tôi. Tôi không phải là người đánh đàn
giỏi.
Tôi cười nói :
- Ðánh đàn hay hoặc dở, điều đó đâu quan trọng. Ðiều quan trọng là tiếng đàn
của anh đã vang lên đúng lúc. Chắc anh cũng đồng ý với tôi. Chúa không phải chỉ
lựa chọn phát ngôn qua những người miệng lưỡi trôi chảy, có thể Ngài lựa chọn
một người nói ngọng.
Vị sư huynh vỗ nhẹ lên chiếc phong cầm.
- Nghe anh nói, tôi nghĩ chắc anh mê chiếc đàn này lắm.
- Vâng. Bề ngoài trông có vẻ cũ kỹ nhưng thanh âm của nó nghe thật tươi mát
và quyến rũ.
- Anh có thể đánh thử một bản nhạc anh thích.
Tôi lắc đầu.
- Tôi chưa đánh Harmonium lần nào.
- Không sao, anh đã nói : điều quan trọng không ở chỗ đánh đàn hay hoặc dở mà
ta là đánh đúng lúc.
- Nhưng tôi không biết nhạc thánh ca.
- Anh có thể đánh một bản nhạc tình cảm.
Tôi ngạc nhiên hỏi :
- Tôi có thể đánh một bản nhạc tình cảm