
chuyện, người cười gọi chàng lại cùng thưởng hoa, còn kể rằng hồi chàng
nhỏ xíu, ông đã nói cho chàng biết tên loại đào này, nhưng chàng bỏ
ngoài tai tất cả, chỉ một mực đòi ông hạ chỉ giam cầm Yến Long… Từ khi
bị giam lỏng ở đây, phụ vương chỉ sợ không thể thật sự thưởng ngoạn cội
đào này nữa, vừa rồi ngài mới tiết lộ cho thiếp biết, giống đào này tên
gọi mỹ nhân đào.”
Thiếu Hạo ngước mắt ngắm gốc mỹ nhân đào, chỉ
thấy hoa nở đầy cành, cười ngạo trong gió. Y làm sao quên được cái tên
mỹ nhân đào, năm y lên năm tuổi, phụ vương họa một bức tranh đào hoa mỹ
nhân, mỹ nhân là mẹ ruột y, hoa đào chính là mỹ nhân đào, phụ vương còn
cầm tay y viết một bài thơ tưởng nhớ mẫu thân lên bức họa.
A Hành thì thầm yếu ớt: “Phụ vương đã tha thứ cho chàng rồi.”
Tuấn Đế vốn rất căm hận Thiếu Hạo hạ độc giết mình, đến nỗi còn bắt vương
phi của y phải nếm trải nỗi đau đớn lúc lâm chung cùng mình để trừng
phạt, nhưng trong khoảnh khắc trước khi lìa trần, qua cửa sổ, ông chợt
trông thấy cả cây đào nở đầy hoa rực rỡ. Phút giây ấy, ông đã buông bỏ
hết thảy, mỉm cười tiết lộ với A Hành: “Đó là mỹ nhân đào.” Trong khoảnh khắc cuối cùng, điều duy nhất mà ông đinh ninh mãi chẳng quên không
phải là vương vị, cũng không phải hận thù, mà là tất cả những gì tốt đẹp ông từng có trong đời. Hẳn Tuấn Đế đã quên hết những mâu thuẫn giữa cha con, chỉ còn nhớ cái ngày ông bồng Thiếu Hạo, hai cha con vừa cười đùa
vừa ngắm hoa đào.
Thiếu Hạo trân trân nhìn những đóa hoa đào nở
đầy cành, sắc mặt tái ngắt, toàn thân run bắn, đột nhiên y quay phắt
người lao vào phòng, khuỵu xuống trước giường Tuấn Đế, gục đầu lên cánh
tay ông, mãi một lúc lâu mới loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc tấm tức
khẽ đến không thể nghe nổi.
A Hành cúi xuống bế xốc Tiểu Yêu
lên, vừa khóc vừa chạy đi. Tiểu Yêu giơ tay lau nước mắt cho mẹ, bắt
chước mẹ nói giọng dỗ dành, “Mẹ, mẹ ngoan nào, đừng khóc!”
Chim quyên trên cành đào nghiêng đầu nhìn Thiếu Hạo quỳ sụp trước giường, da diết kêu thương: “Không khổ, không khổ…”
Nếu đời không có khổ đau, có lẽ sẽ chẳng phải rơi nước mắt, nhưng phàm là
người ai cũng có thất tình lục dục, thất tình lục dục đều là khổ, mà nỗi khổ đau nhất trong những khổ đau chính là yêu không được, hận cũng
không đành.
Ngay đêm đó, A Hành lẻn và địa lao dưới Ngũ Thần sơn.
Địa lao này xây bằng long cốt, lại được thêm linh khí của Ngũ Thần sơn,
chuyên dùng giam nhốt những kẻ có linh lực trong Thần tộc và Yêu tộc.
Toàn bộ địa lao có ba tầng, phạm nhân càng ở tầng dưới thì linh lực càng cao, thế nên cũng chẳng mấy ai đủ tư cách để bị giam ở tầng thứ ba.
A Hành nhìn quanh, thấy bốn bề rờn rợn âm khí, chẳng biết Yến Long bị giam ở đâu.
Chợt loáng thoáng nghe thấy tiếng nhạc đứt quãng, nàng vội đi theo âm thanh
đó, càng đi tiếng nhạc càng rõ dần lên. Chẳng biết là khúc nhạc gì, mà
nghe êm tai khôn xiết.
A Hành khẽ khàng tiến lại, trông thấy Yến Long đầu bù tóc rối ngồi bệt dưới đất, trước mặt bày một hàng những
chén bể bát vỡ, cái to cái nhỏ, bàn tay còn lại đang cầm một miếng ngọc
bội gõ lên đám bát vỡ. Những chén bát này cái to cái nhỏ, âm thanh phát
ra cũng khi bổng khi trầm, hợp lại thành một khúc nhạc.
Nàng
dừng chân lặng lắng tai nghe, nhớ lại mấy trăm năm trước, dưới gốc đa,
cạnh bụi dâm bụt, Yến Long áo gấm đai vàng, thần thái phiêu dật, đi đứng thong dong, để cầu một lời hứa của Tây Lăng công tử, hắn chẳng nề hạ
mình, bỏ cả tôn nghiêm vương tử, mặc ý cho nàng sai khiến.
Yến
Long xuất thân cao quý, dung mạo hơn người, từ nhỏ lại cần cù học tập,
thông minh xuất chúng, còn trẻ mà đã sáng chế ra Âm Tập chi thuật vang
danh thiên hạ, trong lúc cười nói chuyện trò, chỉ một khúc đàn mà tiêu
diệt được thiên quân vạn mã. Chắc hẳn hắn cũng từng mong được tung cánh
bay cao nơi bệ vàng thềm ngọc, ấp lục ôm hồng thúc ngựa phi nhanh, lông
trĩ áo cừu chỉ điểm giang sơn. Chỉ tiếc rằng, đã sinh ra Yến Long, sao
còn sinh ra Thiếu Hạo? Ngai vàng chỉ có chỗ cho một người duy nhất,
thắng làm vua thua thì làm giặc mà thôi.
Yến Long tấu xong khúc nhạc mới ngẩng lên nhìn người đến, chẳng nói năng gì, chỉ ngồi tựa vào tường, mỉm cười nhìn A Hành.
A Hành bước đến trước cửa ngục, chợt thấy miệng khô khốc, nói không nên lời.
Yến Long châm chọc: “Nửa đêm vương phi lặn lội đến tận đây chỉ để chiêm ngưỡng bộ dạng thảm hại của ta thôi ư?”
A Hành trao cho hắn chiếc nhẫn ngọc có chứa bàn tay đứt cùng bức thư ghi
trên lụa trắng của Tuấn Đế. Yến Long ghé sát vào ánh lân tinh lập lòe
trong nhà lao, đọc lướt qua bức thư rồi thẫn thờ lần tay lên những nét
chữ viết bằng máu trên mặt lụa, âm thầm rơi nước mắt.
“Phụ vương đi lúc nào?”
“Chiều nay.”
Hai tay Yến Long nắm chặt vuông lụa, gục đầu vào đó, chẳng trông rõ được vẻ mặt, chỉ thấy toàn thân hắn run lên bần bật.
Một lúc lâu sau, hắn ngẩng lên hỏi: “Người đi có bình yên chăng?”
A Hành thoáng nghĩ ngợi rồi đáp: “Ngoài cửa sổ phòng phụ vương có một cây đào đang trổ hoa, câu nói cuối cùng của người trước lúc ra đi là: ‘Đó
là mỹ nhân đào.’”
Yến Long cười khẽ: “Phụ vương vẫn vậy, hồi