
văn Thạch Lam, thầy Hồ Phú Quế với tâm hồn lãng mạn của người con
xứ Huế, giảng rất hay về khoảnh khắc giao thừa của hai nhân vật Liên và Huệ…, bối
cảnh cuộc đời khác nhau hoàn toàn… nhưng nhớ nhất, là đoạn thầy viết tổng kết, thầy
khuyên học thuộc, để mai kia trên đường đời, mỗi người sẽ có một kỉ niệm về đêm
ba mươi… “Rất nhiều đêm qua đi để có một đêm ba mươi, rất nhiều đêm ba mươi qua
đi, để có một đêm ba mươi Tết. Và cũng phải có nhiều đêm ba mươi tết qua đi, mỗi
con người sẽ có một tối ba mươi xúc động tâm hồn…”
Vâng,
thưa thầy… đêm ba mươi xúc động là đêm nay đây, con đang cảm nhận niềm xúc động
khi nhớ về những mùa xuân qua đi trong cuộc đời con… những mùa xuân thanh bình
nơi quê hương Mỹ Cát bao quanh đầm Đề Gi, với những bãi cát vàng tuyệt đẹp, với
sóng biển dào dạt êm đềm cuộn vào bờ, với tiếng reo vi vút ngút ngàn của rừng
dương, với từng đoàn người ra biển trong đêm giao thừa… và những năm trọ học ở
Quy Nhơn, do chiến tranh lan rộng, không về nhà ăn tết cùng gia đình, chiều chiều
ra biển khu Hai, dọc đường Nguyễn Huệ nhìn biển cho đỡ nhớ nhà… và hôm nay giữa
rừng sâu của miền cực bắc Campuchia, trong muôn nỗi nhớ về thời gian… thời gian
đã đi qua đong đầy bao kỉ niệm, khi năm tháng lùi xa, kỉ niệm cũ lại quay về…
Thời
gian ơi! Hãy cho tôi và đồng đội tôi, được trở về sống với những đêm ba mươi
thanh bình, hạnh phúc bên những người thân. Xin hãy bay đi màu mây trên tóc những
người mẹ chiến sĩ, để trên cõi đời này… những người mẹ chiến sĩ vẫn sống mãi
bên con cái mình… dù rằng đã có nhiều người con mãi không trở về bên mẹ được nữa.
Những đứa con của lòng đất mẹ Việt Nam trung dũng kiên cường “sáng chắn bão
giông, chiều ngăn nắng lửa…”
Tết
năm đó, xuân Kỉ Mùi 1979, do đường vận chuyển chưa thông, nên quà Tết đến trễ cả
tuần.
Cuối
cùng, xuân đã về… đã về trên biên giới Thái Lan – Campuchia, thay cho pháo hoa,
là những chùm pháo sáng máy bay Thái Lan thả suốt cả đêm, dọc theo dãy Dangrek.
ĐÓN XUÂN KỈ MÙI BÊN RẶNG NÚI DANGREK.
Thời
gian đón tết Kỉ Mùi, tôi cũng không còn nhớ chính xác, chỉ biết rằng sau đêm
nghe bác Tôn chúc tết cả tuần, thì xe Hậu cần mới đến nơi. Hoàn cảnh lúc ấy rất
khó khăn, hầu hết các đơn vị đều đã cạn kiệt về lương thực, thực phẩm, gian nan
nhất là tình trạng thiếu muối, cá chuồng khô là loại cá có nồng độ ướp muối
cao, được nhà bếp luộc để lấy nước muối cho đơn vị, gạo cũng còn có ít phải ăn
dè xẻn từng bữa.
Khi
cùng anh em Đặc công 198 đánh chiếm chùa, tôi phát hiện ở bình độ 500 có một rẫy
mì (sắn) của lính Pốt, trồng rải rác theo sườn núi, do đúng vào mùa khô tinh bột
nhiều nên rất ngon, luộc lên bột bở ra màu trắng đục, nhìn rất là bắt mắt, anh
em e95 phần lớn là dân Khu 5 nên cũng hạp khẩu loại lương thực này, chỉ tội cho
các anh em Hà Nội chưa bao giờ thưởng thức, bước đầu cũng khó khăn cho dạ dày
thích ứng, qua thời gian thì cũng “hội nhập kinh tế,” những lá mì non gần đọt
cũng được anh em Quảng Ngãi chế biến thành món muối dưa, phụ vào bữa cơm cho có
chất rau (lúc này chưa biết đào củ mài ăn đỡ đói, hái lá ngót rừng về nấu canh,
hai món này do Chính ủy e95 Thiếu tá Tạ Như Quỳnh truyền nghề, khi ông lên thăm
đơn vị.
Diện
tích sắn trên đồi cũng không có nhiều, nên chúng tôi không thông báo cho các
đơn vị biết, mỗi ngày B trinh sát chỉ lấy vài gùi B40, về luộc ăn kèm với cơm,
thỉnh thoảng anh em đói thì nướng thêm, vì lính trinh sát suốt ngày trèo đèo lội
suối mà đói thì đâu được, toàn là thanh niên đang độ tuổi lớn, sức ăn mạnh, khổ
sở cho anh em bộ binh, lao động cực nhọc, ăn uống thiếu thốn trăm bề. Thấy cảnh
anh em bộ binh bị sốt không thể ăn được cơm, chúng tôi bào mì nấu chung với thịt
bò hộp loãng như soup, nên thời đó có giai thoại sốt không ăn cơm, thì có món
soup Trinh sát, sau này do nhận nhiệm vụ đi xa dài ngày tôi mới “bàn giao kho
lương thực” cho c1 d1 (chỉ có Anh Nguyễn Tiến Chăn, nay ở Lập Thạch – Vĩnh Phúc
là chính trị viên c1 là người duy nhất biết rẫy mì này).
Thời
gian này, Sư đoàn 307 là sư đoàn duy nhất có mặt từ bờ tây Mê Kông lên đến
Preah Vihear, một địa bàn quá rộng và quá xa so với công tác hậu cần, và sau
chiến dịch ta còn quá nhiều việc để làm, giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống.
Từng đoàn người hành hương trở về quê hương, sau bao nhiêu năm xa xứ, theo lệnh
tập trung của Pốt, tràn ngập các con đường cả ngày lẫn đêm, đói khát bệnh tật,
bộ đội ta vẫn phải giúp họ. Trên lộ 12 từ thị trấn Sralau giáp biên giới Lào đến
Trapeng, Phnom Thbeng qua Rovieng về Congpong Thom không lúc nào ngớt người đi.
Phẩu của Sư đoàn vẫn chữa bệnh cho dân, những ca đẻ khó của dân, cũng được các
bác sĩ giúp đỡ vượt cạn giữa thanh thiên bạch nhật… trên những miếng ván kê tạm
giữa rừng, trong những ngôi nhà bỏ hoang dọc đường… tiếng khóc của sơ sinh… giọt
nước mắt hạnh phúc của những bà mẹ… Nhiều y, bác sĩ chỉ kịp buộc sợi dây vào cổ
tay bé sơ sinh để chúc lành, vừa kịp gật đầu làm cha đỡ đầu cho đứa bé, theo
yêu cầu của người mẹ vượt cạn, dù rằng có những anh em chưa có mảnh