
o dòng, không cần đo đếm độ dài
của dòng chảy, để lịch sử đã hé mở chìm sâu dưới đáy nước, để câu chuyện chưa từng được đọc trôi nổi trên mặt nước. Trong kết cục đi tìm khởi
đầu mới, nói cho cơn gió nhẹ hay rằng, bạn sẽ đến vườn Thẩm, sẽ tìm kiếm một giấc mộng cũ bi thương thời Tống. Nói với mây trắng rằng, bạn sẽ
đến vùng thôn quê, yên lặng ngắm sân khấu đã già nua của tuổi xuân.
Ly biệt ngắn ngủi là để có niềm vui lúc trùng phùng, ly biệt vĩnh viễn lại là một vẻ đẹp không thể tả bằng lời của nhân sinh. Bạn từng hồi tưởng
sâu sắc về sông nước, có một ngày, sông nước cũng sẽ lờ mờ nhớ lại bạn
của ngày hôm qua.
Gặp gỡ vườn Thẩm
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu. Đông phong ác, hoan tình bạc,
nhất hoài sầu tự, kỷ niên ly sách, thác, thác, thác!
Xuân như
cựu, nhân không sấu. Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu. Đào hoa lạc, nhàn
trì các, sơn mình tuy tịa, cẩm thư nan thác, mạc, mạc, mạc!
(Tống, Lục Du, “Thoa đầu phượng”)
(Dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo:
Tay trắng muốt, rượu vàng rót, cây liễu cung sân xuân cách bức. Gió đông
dữ, tình thắm lỡ, một mối tơ sầu, bao năm tan vỡ. Dở, dở, dở!
Xuân như trước, người gầy rạc, ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt. Hoa đào rữa, lầu gác trở. Non thề còn kia. Chớ, chớ, chớ!)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc. Hiểu phong can, lệ ngân tàn, dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan. Nan, nan, nan!
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác. Giốc thanh
hàn, dạ lan san, phạ nhân tầm vấn, yên lệ trang hoan. Man, man, man!
(Tống, Đường Uyển, “Thao đầu phượng”)
(Dịch thơ Đông A:
Tình đời bạc, tình người ác, mưa tiễn hoàng hôn hoa tan tác. Gió mai lan, lệ hoen tàn, muốn thư tâm sự, rặt ý lan man. Nan, nan, nan!
Người
đơn bạc, nay mai khác, bệnh lòng như thể ngàn thu tạc. Tiếng tù vang,
bóng đêm tan, sợ người tra hỏi, nuốt lệ tân trang. Gian, gian, gian!)
Chưa một ai bước vào vườn Thẩm[4'> mà cảm giác như gió mưa quay về, cho dù
cảnh trí và sự tích nơi đây đã sớm lặp lại hàng trăm ngàn lần trong giấc mơ của bạn. Nhưng rốt cuộc bạn chỉ là một áng mây màu phiêu lãng, có lẽ bạn có thể nhận ra mối tình quá khứ năm xưa của vườn Thẩm, nhưng lại
không có một cành cây ngọn cỏ nào nơi đây đợi chờ bạn. Nếu như nói là
đến đây để hồi tưởng, thì cái bạn hồi tưởng là ký ức của Lục Du; nếu như bạn nói là đến đây để tìm mộng, thì cái bạn tìm kiếm là mộng cảnh của
Đường Uyển. Vườn Thẩm như một hồ nước xuân sáng như gương, có thể soi
bóng chuyện cũ ngày xưa một cách rõ ràng, nhưng bạn vĩnh viễn chỉ là một kẻ bên ngoài nhìn vào, mà không thể là người bước vào trong tấm gương.
[4'> Vườn Thẩm (Thẩm viên): là khu vườn cảnh nổi tiếng đời Tống ở Thiệu
Hưng, gắn liền với câu chuyện tình bi thảm của nhà thơ Lục Du và người
vợ Đường Uyển. Năm 20 tuổi, Lục Du kết duyên cùng người em họ Đường
Uyển, hai người là thanh mai trúc mã, vừa tâm đầu ý hợp, thi thư xướng
họa, nhưng Đường Uyển lại bị mẹ chồng ghét bỏ, bà buộc Lục Du phải bỏ
Đường Uyển, Lục Du đành phải chia tay Đường Uyển, nhưng vẫn lén thuê nhà riêng để hai vợ chồng có thể gặp gỡ. Sau này mẹ Lục Du phát hiện, đến
tận nơi mắng nhiếc, khiến Lục Du và Đường Uyển phải chia tay thật sự.
Lục Du cưới vợ khác, còn Đường Uyển lấy Triệu Sĩ Trinh. Hơn mười năm
sau, Lục Du dạo chơi vườn Thẩm, tình cờ gặp Đường Uyển và chồng, Đường
Uyển kể hết cho Triệu Sĩ Trinh, Triệu Sĩ Trinh là người cao thượng,
không những cảm thông mà còn cho phép vợ làm tiệc rượu đãi Lục Du. Lục
Du đã đề một bài từ trên tường để bày tỏ nỗi lòng mình, chính là bài
“Thoa đầu phượng”. Đường Uyển đọc xong cũng cảm động, đề một bài từ đáp
lại. Sau buổi hôm ấy, Đường Uyển buồn rầu nghĩ ngợi, rồi ốm mà mất. Cái
chết của nàng khiến Lục Du đau khổ, ân hận suốt đời, không thể nguôi
ngoai.
Mặc dầu chỉ là một hạt bụi trần lơ lửng giữa thời gian của vườn Thẩm, nhưng vì khúc thiên cổ tuyệt xướng đó, mà du khách như nước
lũ đến dạo quẩn quanh trong vườn như xưa. Đương nhiên, cánh cửa dày nặng đã từng đóng im ỉm đó của vườn Thẩm đã ung dung mở ra chào đón tất cả
mọi người. Vườn Thẩm vốn là một khu vườn của họ Thẩm ở Giang Nam, cho dù thấm đẫm trăng sáng thời Tống, lại trôi qua mây nước Minh, Thanh, còn
nhuốm màu mưa khói thời nay, nhưng năm tháng ở nơi này trước sau vẫn
dừng lại trong một bài từ tên là “Thoa đầu phượng”.
Là “Thoa đầu
phượng” của Lục Du và Đường Uyển, cũng là vườn Thẩm của Lục Du và Đường
Uyển. Họ bị hiện thực tàn khốc chia cắt vận mệnh, trở thành tù nhân của
lễ giáo phong kiến, mà vườn Thẩm lại tạo cho họ một vận mệnh khác, khiến ly biệt có thể trùng phùng đầy thương cảm, khiến tan vỡ có thể viên mãn một cách tàn khuyết. Dù cho suốt đời chẳng được bên nhau, nhưng họ lại
trở thành một phong cảnh chẳng thể chia lìa trong vườn Thẩm, vườn Thẩm
cũng nhờ câu chuyện của họ, mà trở thành một địa điểm khiến người ta
phải nhẫn nại nghiền ngẫm nghĩ suy.
Thảng như bạn không muốn làm
một người cổ