
ột món ăn đều khiến tôi nhớ mãi, mỗi
một gương mặt người, đều khiến tôi cảm động.
Cẩm Lý là một con
phố cổ thích hợp với việc hoài cổ, cũng là một địa điểm mà người nhã kẻ
tục có thể cùng thường ngoạn. Rất nhiều người đến đây có thể tìm lại ký
ức tươi đẹp, cũng có thể hưởng thụ cuộc sống chậm rãi, an nhàn giữa phố
thị sôi động xô bồ. Ánh dương luôn hiểu lòng người, nhìn thấu hết thảy
sự náo nhiệt của Cẩm Lý. Đứng trên phố nhìn những người thợ thủ công
quẩy gánh nặn tò he, mua súc vải gấm của đất Thục trong những cửa tiệm
sặc sỡ sắc màu, dưới khán đài xem một đoạn kịch có kỹ thuật đổi nét đặc
sắc. Tựa như mượn một súc vải thêu, vải gấm đất Thục là có thể dệt nên
sơn hà tráng lệ, nghe một đoạn kịch Xuyên là có thể diễn hết buồn vui ly hợp, uống một bát rượu cay là có thể gia nhập buổi kết nghĩa vườn đào.
Cẩm Lý chính là một con phố cổ đầy rẫy huyền thoại, rõ ràng đứng giữa
hồng trần phồn hoa, mà lại thản nhiên như nằm ngoài hồng trần.
Có người nói, đi loanh quanh ở Cẩm Lý của Thành Đô cũng giống như đi dạo ở Lệ Giang của Vân Nam, nhưng tôi lại cảm nhận được tục lệ thói quen giữa hai nơi này khác nhau hoàn toàn. Ở Cẩm Lý, điều khiến tôi kinh ngạc
nhất là kịch rối bóng. Tạo hình rối bóng sinh động, linh hoạt, những
hình vẽ tinh tế tỉ mỉ, động tác linh động, khéo léo, âm điệu tròn trịa
uyển chuyển, sức lôi cuốn của loại hình nghệ thuật cổ điển mộc mạc mà
tao nhã này tạo ra có thể khiến những mây gió đã chìm khuất lại nổi lên, khiến quá vãng đã lùi xa được tái hiện trở lại. Nó có thể khiến người
ta ôn lại những phong tục thuần phác của Xuyên Tây, tìm lại những niềm
vui giản đơn của tuổi thơ ấu. Tôi nhìn thấy người Thành Đô sống một cuộc đời vui vẻ sung sướng ở Cẩm Lý, đem những tâm nguyện tốt đẹp nhất hong
dưới ánh nắng ấp áp, đem những câu chuyện bình thường phản chiếu lại
trong một vở kịch rối bóng.
Kịch chưa kết thúc, ánh đèn vẫn sáng. Đứng trong phố cổ Cẩm Lý tràn ngập hơi thở của ngành kinh doanh, nhìn
ra xa chỉ có Vũ Hầu tự (miếu Vũ Hầu) sát ngay gần đó, lúc này đang im
lìm trầm mặc. Sự trầm mặc của nó, có phải là đang chờ đợi một câu chuyện ngàn thu ba lần đến nhà tranh khác hay không? Lưu Bị và Gia Cát Lượng
của năm đó, có phải vẫn còn đang ở thánh địa Tam Quốc, ngồi đối diện
nhau, gẩy đàn nâng chén hay không?
Cẩm Lý, bạn hãy nhìn hành
trang rỗng không này xem, nó đã bị lấp đầy bằng cuộc sống chân thực và
văn hóa lịch sử nơi đây. Mang theo những ký ức sinh động đầy ắp này, đủ
để nuôi dưỡng tâm tình một đời, và truyền cho một người khác. Hãy để họ
biết rằng, ở Cẩm Lý có một bức tranh “Thanh Minh thượng hà đồ” phiên bản Thành Đô hết sức thú vị.
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên
đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực
khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây
còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận
tầng mây mịt mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu
đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong
những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà.
Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Khúc thứ nhất: Nếp cổ Cầm Đài
Ngồi trên một chiếc xe ngựa thời Hán, lần theo một làn điệu sinh động, hoặc
đi theo một làn gió mát trong lành, là có thể đến được Cầm Đài của Thục
Trung. Đứng trên đường Cầm Đài mới phát hiện ra, tôi giống như một người lữ khách hiện đại nhớ nhà, mà quên mất mặc bộ Hán phục phấp phới. Mà
đường cũ Cầm Đài không phải là đường phố thời Hán, chỉ là thời đại Đại
Hán đã đánh rớt một phong cảnh, treo một bức cổ họa nơi đây.
Tôi
nghĩ, mưa khói của hơn hai nghìn năm trước trôi đi, cái còn lưu lại hẳn
là tinh túy nhân văn như thế nào? Thời gian hơn hai nghìn năm mài mòn,
cái bị cất giấu hẳn là báu vật bút mực ra sao? Không có năm tháng xa
xôi, chẳng có đao quang kiếm ảnh, nhưng vẫn có thể tái hiện một cuộc
vinh hoa Đại Hán, lễ nhạc yến tiệc, ca vũ thênh thang trong những bức
tranh trên gạch nung thời Hán.
Quất ngựa tung vó bụi mù, bánh xe
của lịch sử lăn qua mọi thời đại gió thét mây gào, lăn đến thời thái
bình thịnh thế ngày nay. Đường Cầm Đài - một cảnh quan tráng lệ nguy
nga, lẽ nào lại không đẹp đẽ hơn, to lớn hơn triều đại trước? Nếu luận
về phong cốt, thì hán phong cổ vận choáng ngợp trời cao này đủ khiến
người ta si mê. Nếu nói về lãng mạn thì đôi tình nhân mười ngón tay đan
vào nhau cùng dạo bước trên con đường lát đá đó nghiễm nhiên chính là
Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như năm nào.
Là Cầm Đài của Đại Hán, là Cầm Đài của Trác Văn Quân, cũng là Cầm Đài của Tư Mã Tương Như. Năm
xưa, một khúc “Phượng cầu hoàng” đã hé mở tiếng đàn lòng đầy tình cảm,
từ đây những người liên quan và cả những người không liên quan nghe thấy đ