
thỏa mãn tâm nguyện hùng vĩ của biết bao nam nhi tan nát như
tro tàn.
[7'> Trích bài “Mộng Lý Bạch”, kỳ nhị của Đỗ Phủ, Trần Tuấn Khải dịch.
Cho dù không cam tâm biết mấy, nhưng đối diện với sự chìm đắm của vận mệnh, sự thất thủ của Trường An, ông chỉ có thể vứt bỏ danh vọng cao chạy xa
bay, say mèm quay về đất Thục, lạc phách trở về đồng hoang. Ông không
thể như Trích tiên khách (Lý Bạch), tuy giấc mộng Trường An tan vỡ, vẫn
có thể du hiệp giang hồ, tự do bay nhảy; có thể cưỡi mây cưỡi gió, cúi
nhìn trận chiến tranh này. Cũng chẳng thể như Đào Tiềm, kinh qua chìm
nổi quan trường, rốt cuộc quay về quy ẩn Nam Sơn, chỉ làm mấy mẫu ruộng
vườn. Thảo đường năm đó - há chẳng phải ngươi đã như vậy hay sao?
Rừng trúc sâu thẳm, cửa gỗ khép hờ, ngòi bút gầy guộc của ông vẫn từng nét
từng đường khắc lên những áng thơ trang trọng của lịch sử. Căn nhà tranh thô lậu đơn sơ này, sao có thể gánh được đại sự thiên hạ, oán hận quốc
gia mênh mông đó? Ông hy vọng thảo đường này có thể trở thành lâu đài
thênh thang, có thể che chở cho hàn sĩ thiên hạ, muôn vàn bách tính. Thế nhưng phong hoa thịnh thế của Đại Đường, đã như nước chảy về đông,
đường xưa dấu cũ của Trường An, đã càng ngày càng lùi xa.
Ông
ngâm rằng “Bạch nhật phóng ca tu túng tửu, thanh xuân tác bạn hảo hoàn
hương” (Ngày đẹp hát ngao thì chuốc rượu, trời xuân theo bước thẳng về
làng[8'>) thì cớ sao không từ bỏ được giang sơn cô tịch, ngao du trời mây vạn dặm? Đã biết “Văn chương tăng mệnh đạt” (Văn chương ghét mệnh
đạt[9'>), lại cớ sao không từ bỏ được công danh bút mực, vẫn lưu luyến
nhiệt huyết anh hùng? Vị thánh thi tài rạng thiên cổ, tâm xót muôn dân
này ắt hẳn không quên nổi ngày hôm qua phồn hoa của Trường An, không
sống nổi những năm tháng bình dị tầm thường.
[8'> Trích bài “Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc” của Đỗ Phủ, Doãn Kế Thiện dịch.
[9'> Trích bài “Thu nhật hoài Lý Bạch” của Đỗ Phủ, Nam Trân dịch.
Đã sống ở thảo đường nhưng hào tình chẳng dứt, không chịu cầu an trong hơi men, say ngủ trước sân. Dưới ánh đèn xanh lờ mờ, ông khoác áo ngồi
trông, chống tay ngắm sóng mây, bút đưa ngang ý thu dào dạt, văn thơ
thành vạn quyển. Cửa sài[10'> lúc chiều bảng lảng, có thể nhìn hết những
gì tuyệt diễm chốn nhân gian, vầng mặt trời sắp lặn đó, còn có thể thắp
sáng cuộc đời gió táp mưa vùi của ông không?
[10'> Cửa sài: Cửa làm bằng tre, nứa, ám chỉ nhà nghèo.
Hải âu bị chặt cánh, không thể tự do bay vút tầng không; tướng sĩ cởi bỏ
chiến bào, không thể rong ruổi cưỡi ngựa biên cương. Chỉ đưa cho ông một chiến thuyền, là tìm đến chốn về sâu thẳm ở chân trời góc bể. Thảo
đường nhà tranh, tuy đơn sơ, nhưng cũng có phong cốt riêng của nó. Đỗ
Công Bộ lúc này không còn ngựa khỏe vút phi, khí ngạo tâm cuồng, ý chí
xung thiên như thời niên thiếu, mà chỉ là một ông già tóc đã điểm sương, thân hình gầy yếu.
Có lẽ là thời gian mềm dịu của Thành Đô, cảnh xuân tươi sáng của thảo đường dần dần đã xoa dịu những nếp nhăn tang
thương trong đáy lòng ông, nếu không, sao ông có thể đứng bên bờ suối
Hoán Hoa ngâm vịnh những dòng thơ thanh tân “Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu, nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên” (Hai cái oanh vàng kêu liễu
biếc, một hàng cò trắng vút trời xanh[11'>) đến vậy? Thả bước lên bờ suối xanh trong của thảo đường, dường như còn nhìn thấy bóng dáng dựa lan
can buông cần mà say ngủ năm xưa của Đỗ Phủ. Cây cầu đá mưa khói đó, có
ai đã bẻ cành mai bước qua, bỏ lỡ mây trắng tựa tuyết, lại phụ trăng
sáng tùng thấp, chỉ vì lưu lại chút hương lạnh cách tuyệt thế gian này.
[11'> Trích bài “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ, Tản Đà dịch.
Suối lượn quanh co như số phận chìm nổi lênh đênh của thi nhân. Đôi tay
buông cần câu được nước biếc, câu được mây nhàn, nhưng vẫn không bỏ được cây bút lớn, tấm lòng kinh bang tế thế không hề suy giảm so với năm
nào. Chính ở thảo đường thanh u này, chính trong thời gian ẩn dật này,
sáng tác thơ ca của Đỗ Phủ lại ào ạt như sông lớn, cuốn rôi gió mây lịch sử, rúng động lòng dân xã hội. Bút mực dạt dào, thấu triệt như đầm sâu, soi chiếu vạn vật sơn hà, muôn cảnh sinh linh, nhưng khó có thể nghịch
chuyển càn khôn trong một vùng đất đai cằn cỗi, khó có thể níu giữ sóng
cả bên vách núi hiểm trở cheo leo.
Biết bao lần khi màn đêm ập
xuống, mỗi lần khêu đèn thắp sáng, chỉ vì đợi chờ một bình minh không
còn xa xôi. Trong những tháng ngày mờ mờ tỏ tỏ ở thảo đường, ông không
quên được hào tình mở miệng ra là ngâm vịnh phượng hoàng năm xưa, không
quên được chí hướng “Trí quân Nghiêu Thuấn thượng.” (Giúp vua vượt
Nghiêu Thuấn[12'>) Cho dù cả đời không thể quay về Trường An lần nữa, ông cũng không chịu bỏ lỡ ngày tháng, trễ tràng xuân thu. Chỉ có ở nhà
tranh thảo đường này, đem sinh mệnh đơn sơ, nghiên mài thành hương thơm
của mực, để cho dân chúng thiên hạ cùng nếm thưởng nhân sinh trăm vị.
[12'> Trích bài “Phụng tặng Vi tả thừa thập nhị trượng vận” của Đỗ Phủ, Nhượng Tống dịch.
Dưới bóng cây cổ thụ xanh tốt, nhà tranh giậu trúc trước mắt,