
Tiêu Phong phát hiện ra phụ thân là Tiêu Viễn Sơn vẫn còn
sống. Ông cũng chính là ân nhân đã cứu thoát Tiêu Phong ra khỏi Tụ Hiền
trang trong cơn nguy khốn. Và đau đớn thay chính Tiêu Viễn Sơn đã tự tay đẩy con mình vào những cảnh ngộ oan uổng trớ trêu. Ông đã tự tay giết
chết những nạn nhân rồi đổ họa cho con trai! Hai cha con nhận diện ra
nhau ở giai đoạn cay đắng dị thường trong Mê Cung Định Mệnh. Cùng với bi kịch thầy trò Thành Khôn - Tạ Tốn (Ỷ Thiên Đồ Long kí), Kim Dung đã dày công bài thiết thêm bi kịch cha con Tiêu Viễn Sơn - Tiêu Phong như một
ngẫu để song đôi về những oan nghiệt tồn sinh. Cuộc gặp gỡ hai phái
chính tà trên đỉnh Thiếu Lâm tưởng chừng rơi vào chỗ bất khả vãn hồi thì nhà sư quét rác vô danh trong Tàng Kinh các xuất hiện, dùng võ công
siêu tuyệt và Phật pháp vô biên để hóa giải mối oan cừu giữa Tiêu Viễn
Sơn và Mộ Dung Bác, đồng thời khai ngộ cho hai nhân vật kiêu hùng đó
khiến họ tỉnh ngộ và qui y cửa Phật. Một lần nữa Kim Dung lại nhờ đến
Phật pháp để hóa giải oan cừu. Cõi đạo mênh mông Đông phương luôn có chỗ để con người hồi tâm quay về tìm cách hóa giải mọi ân oán thị phi khi
chúng bị đẩy đến chỗ tột cùng và mọi biện pháp giải quyết tưởng chừng
như bế tắc: Sơn cùng thủy phúc nghi vô lộ. Liễu ám hoa minh hựu nhất
thôn (Đến chỗ sơn cùng thủy tận cứ ngỡ như không còn lối nữa, thì lại
thấy thấp thoáng có một thôn xóm trong những rặng liễu mờ và những cành
hoa sáng - thơ Lục Du). Trong khi xưa nay quần hùng đều lên án và nguyền rủa Tiêu Phong thì nhà sư vô danh dị thường đó lại hết lời ca tụng!
Sách ông Kim Dung thường âm thầm mở ra những khoảng vắng lặng để ta có
dịp suy ngẫm thêm về Đức Lí Uyên Nguyên.
Tiêu Viễn Sơn đã xuất gia, nhưng Tiêu Phong lại phải âm thầm sống để
chăm lo cho A Tử theo lời trăn trối của A Châu, dù từ sau cái chết của
người yêu, tâm hồn ông bắt đầu đối diện với sự trống vắng hãi hùng.
Tiếng sáo chăn dê mơ hồ trên đồng cỏ Nhạn môn quan vẫn vọng về như một
sự đọa đày của kỉ niệm. Ông Kim Dung lại càng đẩy cái đoạn trường của
tình yêu lên cao độ khi để cho nhân vật A Tử yêu người anh rể Tiêu
Phong, bên cạnh đó lại bài thiết thêm mối thảm kịch của Du Thản Chi
trong mối tình si dại cuồng điên đối với A Tử! Suốt quãng đời còn lại,
mỗi lần khuyên giải A Tử, Tiêu Phong rất ít khi nhắc đến A Châu, nhưng
mỗi khi đọc, ta vẫn hình dung được tâm hồn ông và cảm thấy ngậm ngùi
khôn tả.
Ở đoạn cuối tác phẩm, để cứu quần hùng bị kẹt tại Nhạn môn quan và buộc
vua Liêu lui binh không được xâm lược Trung Nguyên, Tiêu Phong đã dùng
võ lực áp chế nhà vua bẻ tên thề trước ba quân, rồi ông dùng tên đâm vào ngực tự vẫn để giữ trọn chữ trung thì ta hiểu đó chỉ là cái cớ. Tiêu
Phong đã chết thực sự từ sau cái chết của A Châu! A Tử móc mắt ném trả
lại cho Du Thản Chi rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm để Du Thản
Chi mù lòa kêu gào tên người yêu giữa cảnh trời chiều quan ải. Trong tất cả các tác phẩm Kim Dung có lẽ Thiên long bát bộ là bộ sách hay nhất và có lẽ chỉ có Thiên long bát bộ mới có cái chung cục đau thương nhường
kia. Và dường như định mệnh luôn luôn đem bi kịch vây quanh cuộc sống
của những kẻ anh hùng? Tại phương Đông, triết học hoàn
toàn không phải là những khái niệm xa lạ với cuộc sống, nó không tự đóng khung trong những tháp ngà để mọi người phải "kính nhi viễn chi"[1'> mà
trái lại nó hòa nhập vào tận từng hơi thở của cuộc sống thường ngày.
Người phương Tây thường nói: Ăn trước rồi mới triết lí sau, người phương Đông cho rằng trong công việc ăn uống, sinh họat đời thường tự nó đã
mang tính triết lí rồi. Trong lịch sử phát triển văn hóa phương Đông, đã có nhiều giai đoạn người ta khó lòng chứng kiến được sự nở rộ đến kì
diệu của các trào lưu Trà đạo, Hoa đạo, Kiếm đạo, hội họa thi ca ... nếu như chúng không được gợi hứng trực tiếp ít nhiều từ Lão giáo và Phật
giáo Thiền tông. Thế nhưng hoa đạo, trà đạo hay hội họa ... dẫu cao diệu đến đâu chăng nữa cũng chỉ là sự biểu
hiện của tâm dưới ánh sáng của các tâm hồn giác ngộ; chỉ trong Kiếm đạo, sinh mệnh mới thực sự treo lơ lưng trên đường tơ kẻ tóc. Vấn đề sinh tử không còn được nêu lên để trầm tư suy tưởng như một công án nữa, mà
biên giới giữa tư và sinh giờ đây có khi chỉ cách nhau trong một sát
na[2'>. Từ đó triết học cũng hóa thân vào các kiếm pháp thượng thừa.
Kim Dung là một trong những người đầu tiên bước ra khỏi con đường sáo
mòn của tiểu thuyết kiếm hiệp cổ điển vốn mang nặng phong cách của loại
tiểu thuyết chương hồi về hình thức lẫn mô-típ sáng tạo, trong đó các
nhân vật chính diện lẫn phản diện thường na ná theo một khuôn khổ ước lệ như nhau. Kim Dung là người tiền phong trong việc soi sáng các tư tưởng triết học truyền thống phương Đông dưới một khía cạnh hoàn toàn mới lạ: võ thuật. Ngay từ các tác phẩm đầu tiên như Thư kiếm ân cừu lục cho đến Ỷ thiên Đồ long kí, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã
không ngừng nổ lực triển khai tư tưởng này. Thế nhưng trong các tác phẩm đó, nhất là trong Thư kiếm ân cừu lục, ông đã quá chú trọng đến lí luận nên tư tư