
ên dòng sông Hoài Nam đãtừng xảy ra cái chết thương tâm của một cô gái trẻ, vốn là một thiếu nữxinh đẹp, mười sáu tuổi đã xuất giá. Câu chuyện về nàng thật thương tâm! Sống ở nhà chồng, nàng bị áp bức, đánh đập đến nỗi không thể chịu được. Vào đúng ngày mùng Chín tháng Chín, trong nỗi đau khổ, uất ức đến tộtcùng, nàng tự tìm đến cái chết. Câu chuyện về người con gái bất hạnh ấyvẫn được người dân kể lại với nỗi thương cảm vô bờ. Trong những ghi chép của mình, Vu Chúc đưa ra lời khuyên: “Những người phụ nữ trong gia đình cần ghi nhớ trong ngày mùng Chín tháng Chín chớ nên làm bất cứ việcgì.”
[4'> Thi giải: có nghĩa là thoát xác.
[5'> Người vợ trẻ.
[6'> Những ghi chép, sưu tầm chuyện về các vị thần.
Một oan hồn bị mẹ chồng đối xử tàn nhẫn mà chết, linh hồn hóa thành minhthần để bảo vệ những người phụ nữ bất hạnh, vị minh thần này cùng vớioan hồn chết đuối nói ở trên chẳng phải cũng giống nhau ở hành động nhân nghĩa ấy sao?
Nếu phỏng đoán này là đúng, thi Hà bá chính là oan hồn đầu tiên được phong thần. Sự việc chết đuối mà hóa thành thần sôngnhư thế, hàng ngàn năm sau, vào thời Nam Tống cũng lưu truyền trong dângian câu chuyện nổi tiếng về Lý Hầu khi qua sông bị quỷ ám mà chết. Cũng giống như Phùng Di, ông ta chết đuối và cũng được phong làm thần trịthủy. Một ví dụ khác trong Hữu đài tiên quán bút ký, cuốn chín, Tiêngiang nữ thần của Du Việt có đoạn kể về một dân nữ họ Lưu sống ở huyệnHữu Tuyền, tỉnh Tứ Xuyên sau khi chết đuối: “Ở dòng sông Tiên Giang, mỗi khi có người rơi xuống nước thường có một vị thần xuất hiện cứu vớt. Vị thần này mỗi lần hiện lên thường mặc một chiếc áo trắng, dung mạo toátlên vẻ xinh đẹp của một thiếu nữ còn xuân trẻ. Người ta cho rằng, rất có thể đó là linh hồn của người con gái họ Lưu kia. Đã trải qua bao đời mà linh hồn người đã khuất vẫn lẩn khuất đâu đây, người dân vùng này đãgom góp tiền bạc xây dựng miếu thờ nàng, trên thành miếu còn ghi tạcdòng chữ “Tiên Giang thủy thần miếu[7'>”, lúc nào cũng nghi ngút khóihương.” Từ điều này có thể thấy, người dân sống vùng sông nước thường có một niềm tin, hy vọng tuyệt đối vào sức mạnh của những vị minh thần phù hộ cứu giúp mình vượt qua khó khăn, hoạn nạn.
[7'> Nghĩa là: Miếu thờ thủy thần trên sông Tiên Giang.
Nhưng cũng có những điều trái ngược với tín ngưỡng này, đó là tư tưởng “giang Trành[8'>”, linh hồn sau khi chết thường tìm đến lôi kéo những ngườikhác vào chỗ chết đuối để làm người thế thân cho mình. Quan niệm “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” này được nói tới sớm nhất trong cuốn ba, truyệntruyền kỳ Bắc mộng tỏa ngôn[9'> của Tôn Quang Hiến, trong tác phẩm cóđoạn viết:
Lưu vực hai bên bờ những dòng sông lớn thường có nhiều oan hồn chưa siêu thoát vẫn đi đi về về dụ dỗ nhưng người qua lại ngãxuống nước, đắm thuyền mà chết, oan hồn người chết lại tiếp tục quẩnquanh dụ dỗ, hãm hại những người qua sông khác, tạo thành cái vòng luẩnquẩn đầy oan nghiệt.
[8'> Nghĩa là: Ma đưa lối quỷ dẫn đường.
[9'> Nghĩa là: Những ghi chép tản mạn về giấc mộng phương Bắc.
Cũng vẫn tác phẩm ấy, trong cuốn bốn có đoạn ghi:
Phàm là những người chết do hổ vồ, hay ngã nước thì linh hồn đều rất khósiêu thoát, họ thường vật vờ quanh quẩn tìm người thế mạng cho mình.
Sau này, hai chữ “giang trành” không còn được người đời sau sử dụng, thayvào đó học nhắc nhiều đến những chữ “oan hồn chết đuối”. Điều này đạikhái là chỉ những kẻ chết đuối nếu không tìm được người thế mạng thì sẽkhông đầu thai thành người được. Trên thực tế, những oan hồn cần tìmngười thế mạng không chỉ có ở quanh ao, hồ, sông nước mà ngay cả oan hồn chết đuối dưới giếng cũng cần tìm người thế thân. Trong Tiền thị tư chí của Tiền Thế Chiêu thời Nam Tống có đoạn viết:
Vào thời ThiệuHưng, Ngô Sơn Hạ có một cái giếng lớn, mỗi năm đều có nhiều người rơixuống giếng chết đuối. Thái úy Đống Đức đã cùng nhân dân hào phóng quyên góp tiền của xây cất giếng, có thể dùng thùng lấy nước, giúp hạn chếnhiều vụ tai nạn thương tâm xảy ra, có người trước khi chết còn nghethấy từ trong giếng vọng ra tiếng nói: “Các người luôn sợ hãi trước cáichết, chúng ta có khả năng cướp đi sinh mạng của các người bất cứ lúcnào.”
Câu nói cuối cùng đó thực chất chỉ là thủ pháp “vẽ rồngthêm mắt” của người viết, rất có thể là ảnh hưởng từ truyện Tiếu lâmhoặc trích từ Phật môn. Còn đối với câu chuyện về oan hồn chết đuối,trong những cuốn tiểu thuyết từ thời Tống đã nhiều lần đề cập đến, tácdụng giáo dục mà những câu chuyện đó mang lại chính là khuyên mọi ngườiđặc biệt lưu ý khi qua lại những khu vực ven sông, nơi đã từng có ngườibị chết đuối, không những không nên lội nước mà tốt nhất hãy tránh xakhu vực đó một khoảng cách an toàn. Bài học có ý nghĩa cảnh báo đặc biệt với những ai sống trong khu vực nhiều sông, hồ, kênh, rạch.
Mộtkhi những hồn ma đã tìm được người thế thân, họ sẽ ra sức tìm cách lôikéo, dụ dỗ, hoặc sử dụng những trò lừa gạt, bịp bợm, hoặc dùng chínhnhan sắc để mê hoặc. Người viết cố ý nhấn mạnh và đưa ra lời cảnh báotới những gia đình sinh sống ở ven sông, vì trên thực tế, phần lớn những hồn ma chết đuối đều có liên qua