
ản lớn nhất Châu u- nên
tô súp của tôi rất "thịnh soạn", hơi giống súp bouillabasse của Pháp
nhưng ngon hơn nhiều so với món súp ở Paris tôi từng ăn, có lẽ một phần khi chờ
tới lượt tôi đã đói gần xỉu. Tô súp đầy những sớ cá biển Baltic được gỡ thịt trắng
phau ngon dai, tôm bóc vỏ đỏ au chắc nịch, mực giòn sần sật, thỉnh thoảng lại lẫn
vào những con hàu tươi rói núc ních thịt mọng nước. Nước súp được làm toàn bằng
hải sản nguyên chất, thêm cà chua bằm nhuyễn đỏ au nên ngon đậm đà, trên lại phủ
một lớp kem tươi mỏng làm tăng thêm vị béo ngầy ngậy. Còn bánh mì ở đây làm bằng
lúa mạch (nên chắc phải gọi là bánh mạch chăng?) không biết nướng lúc nào mà
giòn tan, phết bơ lên trên ăn kèm súp không gì bằng. Xung quanh tôi, dân văn phòng
cũng đang xì xụp húp món đặc sản này trên những chiếc bàn trải khăn kẻ carô. Cạnh
tôi, Alastair ăn món lutefisk truyền thống Thụy Điển, trên đĩa là khoanh cá tuyết
lớn phủ sốt trắng đặc như kem, ăn kèm khoai tây nghiền và thịt băm viên. Trước
khi nấu, cá tuyết được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung
dịch nước hòa tro từ cây linh sam (đúng là "phú quý sinh lễ nghĩa")
trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi ban đầu, sau đó ngâm nước
lạnh thêm hai ngày nữa trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò.
Được ăn ngon, chúng tôi tươi tỉnh trở lại và đi dạo
một vòng quanh khu chợ, nơi có nhiều quầy bán rau quả tươi Bắc u: việt quất mọng
nước, quả lý chua, dâu tươi đỏ thắm, bắp cải tím xanh xếp thành lớp đẹp như những
bông hoa khổng lồ…, và đặc biệt nhất là nấm vàng Scandinavia.
Những tai nấm mỡ màng, hơi giống nấm mối nhưng màu vàng
mướt trông mập mạp ngon lành không thể tả, dễ làm ta tưởng tượng tới những khu
rừng cổ tích có nấm mọc dưới gốc cây sồi già, nơi những cô bé mặc áo đầm hoa
xinh xắn rủ nhau đi hái nấm đựng trong lẵng đan bằng cây liễu.
Ngày cuối cùng, sau một buổi đi bộ mỏi chân quanh
khu phố cổ Gamla Stan muôn màu, chúng tôi ghé vào Chokladkoppen (tiếng Thụy Điển
nghĩa là “cốc sôcôla”), quán nhỏ trong tòa nhà xưa Stockholm sơn màu vàng cam, những
ô cửa sổ vuông vắn và đầu hồi uốn lượn. Bắc u lạnh hơn nhiều so với những nước
khác nên chúng tôi không ngồi ngoài quảng trường Stortorget mà vào trong căn phòng
nhỏ bé và ấm cúng, sực nức mùi bánh quy bơ mới nướng và hạt cà phê rang. Bên
trong có cả một bếp nhỏ bày những tô đựng đầy cam chín cây, trên bàn khách là những
đế đựng nến bao bọc lớp sáp nến dày từ những lần thắp trước. Chúng tôi uống
sôcôla nóng trong những cốc dày, nhấm nháp semlor, loại bánh có từ thế kỷ 16
tròn múp míp làm bằng bột mì pha hương bạch đậu khấu, chính giữa xẻ ra nhét bơ
hạnh nhân và lớp kem tươi dày, mịn màng béo ngậy, trên rắc lớp đường vani li
ti. Bánh ăn theo kiểu truyền thống sẽ để trong một đĩa sữa tươi còn âm ấm ăn cùng,
nhưng tôi ăn không kèm sữa để thưởng thức được vị ngon rất riêng. Dù bánh rất
ngon, tôi cũng không dám ăn nhiều vì vừa mới đọc được câu chuyện về vua Thụy Điển
Adolf Fredrik chết năm 1771 sau khi ăn quá nhiều semlor cuối bữa dạ tiệc linh
đình.
Tôi chia tay một tuần lễ giá lạnh trên bán đảo
Scandinavia để về với nắng Địa Trung Hải bằng chuyến bay Thụy Điển- Hi Lạp trên
chuyến bay của hãng hàng không có cái tên khá ngộ: Bông tuyết (Snowflake) *. Ẩm
thực của "quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy, đã xanh ngời liêu
trai" cũng khác hẳn Thụy Điển như chính khí hậu hai vùng ở hai đầu Châu u
này.
Bạn tôi đón tôi từ sân bay và chở thẳng đến trung
tâm Athens, vào một hàng bán souvlaki để bếp bên ngoài, thịt nướng xèo xèo tỏa
mùi thơm khó cầm lòng được. Souvlaki gồm thịt heo hoặc thịt gà, tuần tự một miếng
nạc một miếng mỡ xắt quân cờ, xiên que nướng trên than hồng rực, khi ăn kẹp
trong bánh pita (bánh mì ổ dẹp Hi Lạp, nay đã thành món bánh đại chúng trên khắp
thế giới) chung với rau ngâm dấm. Hãy tạm quên cholesterol khi bạn đang ăn món
này, cứ thưởng thức "đã đời" món thịt nướng ướp cỏ xạ hương và bia,
thoảng mùi khói như níu bước chân rồi chịu khó về tập thể dục vậy! Nếu không muốn
ăn với bánh pita, có thể xiên thịt xen kẽ với các loại củ quả trước khi nướng,
rồi chấm với xốt tzatziki làm từ yaourt, dưa leo xay nhuyễn và nước ép tỏi.
Trên khắp Hi Lạp đâu đâu cũng thấy những quầy bán souvlaki thơm phưng phức kiểu
này, chả trách người Hi Lạp phần đông "tròn trịa" hơn những người
láng giềng Châu u khác.
Hi Lạp Tôi ở Hi Lạp hai tuần với gia đình bạn trên đảo
Evia, một kỳ nghỉ mát "chân chính" sau những giờ làm luận văn căng thẳng.
Ở đây, tôi học cách làm món rau trộn kiểu Hi Lạp, với dưa leo và hành tây tím xắt
khoanh trộn dầu ôliu extra virgin địa phương, rưới vài trái ôliu đúng nghĩa nhà
trồng được, hái từ khoảng sân sau nhà, thêm những miếng vuông phô mai feta nhìn
hơi giống miếng đậu phụ nhưng mùi thơm nồng. Tôi cũng học cách làm món ăn truyền
thống moussaka (đặc trưng như phở với người Việt vậy) gồm những lớp cà tím thái
lát, thịt bò bằm nhuyễn, hành, bơ, trứng, sữa, phô mai và gia vị đem bỏ lò, khi
ăn mềm và dai khá giống món lasagna