
thì gầm trời có một, giọng con
mèo thì cũng không thể có hai. Quan hệ giữa người với mèo khăng khít đến vậy, nên người ta gọi ông là Thường – Mèo. Cho đến bây giờ, vẫn có câu
cửa miệng: “Nghe ông lớn thuyết giáo, không bằng nghe mèo của Thường Mậu kêu” - Uùt Sơn tiếp lời, ý tứ sâu xa.
Về sau, con mèo chết, có
mấy cách giải thích: có người nói, con mèo chết già; có người nói, một
kép hát ghen tị tài hoa của tổ sư, đầu độc chết con mèo; có người nói,
một phụ nữ đập chết mèo vì chị ta yêu tổ sư nhưng tổ sư không lấy chị
ta. Dù sao thì con mèo đã chết. Mèo chết, tổ sư đứt từng khúc ruột, ôm
xác con mèo khóc ba ngày ba đêm, không chỉ có khóc, mà vừa khóc vừa hát, hát khóc cho đến khi mắt đổ máu tươi!
Nỗi đau ghê gớm rồi cũng
qua, tổ sư lấy lông thú làm hai chiếc áo. Chiếc nhỏ là bộ lông con mèo
rừng, ngày thường ông đội trên đầu, hai tai bểnh lên, cái đuôi buông
thõng cùng với bím tóc của ông. Chiếc to được may bằng mười mấy bộ da
mèo như đại lễ phục, dưới mông là chiếc đuôi to tướng. Sau này ông mặc
chiếc áo ấy mỗi khi đi hát tang.
Sau khi con mèo chết,
phong cách diễn xướng của ông thay đổi hẳn. Trước kia nội dung còn có
những đoạn vui tươi nhí nhảnh, sau kho mèo chết, toàn bộ là làn thảm,
đau thương từ đầu chí cuối. Trình thức cũng thay đổi, xen vào lời ca là
tiếng mèo kêu với đủ loại giọng hoặc uyển chuyển hoặc đau thương hoặc
thê thảm để chuyển làn. Trình thức này được bảo lưu cho đến bây giờ, coi đó là đặc trưng nổi bật của Miêu Xoang.
“M… eo, m… eo, m… eo” Uùt Sơn buột miệng đệm tiếng mèo kêu trong khi tui kể, chan chứa cảm hoài!
Sau khi mèo chết, tổ sư bắt chước mèo trong dáng đi, giọng nói, hình như
hồn con mèo đã nhập vào ông, ông với mèo là một. Ngay cả mắt ông cũng
biến đổi: ban ngày lim dim, ban đêm lóe sáng. Sau đó tổ sư mất, đồn rằng trước khi mất ông biến thành một con mèo khổng lồ, hai vai mọc đôi
cánh, húc vỡ cửa sổ, rơi trên ngọn cây lớn trong sân, rồi từ ngọn cây
bay thẳng lên cung trăng. Tổ sư chết rồi, chấm dứt luôn cuộc mưu sinh
bằng hát tang, nhưng làn điệu du dương của nó, tiếng ca não lòng của nó
còn vương vấn mãi trong lòng chúng ta cho đến tận bây giờ.
Khoảng những năm giữa Gia Khánh và Đạo Quang, trên địa bàn Cao Mật có một gánh hát nhỏ của một gia đình mô phỏng làn điệu của tổ sư, biểu diễn có tính thường xuyên. Đó là một cặp vợ chồng, một đứa con. Chồng hát vợ đệm,
đứa con đội lốt mèo, xen vào từng tiếng mi-ao khi bố mẹ hát. Đôi khi họ
cũng hát tang – chú ý, thời kỳ này không “khóc tang” mà “hát tang” – cho một số nhà giàu, nhưng phần lớn là hát ở chợ. Vợ chồng vào vai, vừa hát vừa làm điệu bộ, đứa con cầm rá đi vòng quanh thu tiền. Các tiết mục
quá nửa là trích đoạn, nào la “Lan Thủy Liên bán nước”, nào “Mã quả phụ
khóc mồ”, nào “Chị ba Vương nhớ chồng”… Thực ra, biểu diễn kiểu này là
để kiếm cơm. Miêu Xoang ta với nghề ăn mày có duyên với nhau, hát là để
kiếm cơm, nếu không, chúng ta đã không thành thầy trò.
- Thầy nói đúng quá! – Uùt Sơn nói.
Hình thức biểu diễn như đã nói ở trên duy trì đến mấy chục năm. Miêu Xoang
khi đó chưa có nhạc đệm, chưa có vở diễn chính thức, là kịch mà chưa
phải là kịch. Ngàoi một nhà một hộ như trên đã kể, còn có một số con em
nông dân lúc nông nhàn ngồi bện giày cỏ trong buồng, hoặc nằm khểnh trên giường gõ phèng la của người bán kẹo, gõ sênh của người bán đậu phụ, tự biên tự diễn, hát cho mình nghe, nhằm vơi đi nỗi cô đơn hoặc đau khổ.
Phèng la và sênh là bộ gõ đầu tiên của dàn nhạc Miêu Xoang.
Hồi đó, sư phụ còn trẻ, nhanh nhẹn tháo vát, không phải tự khoe, giọng sư
phụ hay nhất trong mười tám thôn vùng Đông Bắc Cao Mật. Người ta tụ tập
tại một nơi để hát, dần dà có tên có tuổi. Lúc đầu người trong thôn đến
nghe, về sau, cả người thôn khác cũng đến nghe. Người đông, giường,
buồng chứa không hết, phải chuyển ra sân hoặc bãi trục lúa. Trên giường
và trong buồng thì ngồi mà hát. Ra sân hoặc trên bãi trục lúa thì không
chỉ ngồi mà còn phải đứng làm điệu bộ. Làm điệu bộ thì quần áo thường
không hợp, phải có trang phục. Mặc trang phục vào thì mặt không để tự
nhiên mà phải hóa trang. Hóa trang rồi thì một phèng la, một sênh gõ
không đủ, mà phải có dàn nhạc. Khi ấy, số gánh hát từ nơi khác đến Cao
Mật biểu diễn, có “lư hí” (ngồi trên lừa mà hát) từ Lỗ Nam đến; “Lưu
Xoang” (giọng từ cung bậc cao đổ xuống thấp, y như người trượt dốc) từ
Giao Đông tới; lại còn có gánh “Gà Trống” (Cuối câu hát có tiếng nấc cụt như gà trống gáy) từ vùng giáp giới giữa Sơn Đông và Hà Nam… Những gánh hát này đều có dàn nhạc đệm, đại để có hồ cầm, sáo, sô na, kèn bầu.
Cùng nghề nên họ đưa dàn nhạc đến đệm cho ta hát Miêu Xoang, tăng hiệu
quả diễn xuất lên rất nhiều. Nhưng sư phụ là con người hiếu thắng, không thích dùng những thứ có sẵn. Khi ấy, kịch của ta đã có tên là Miêu
Xoang, muốn khác người thì phải bám vào chữ “miêu” mà suy ngẫm. Do vậy
ta phát minh ra miêu hồ. Sau khi có miêu hồ, kịch hát Miêu Xoang trụ
vững.
So sánh miêu hồ của ta với hồ cầm khác, một là to, hai là
nó có bốn dây hai đường mã vĩ, khi k