
i
mới bò được ra khỏi rãnh nước bẩn, thu mình trong một xó tối, người đau
như giần, bụng lép kẹp sôi ùng ục. Ta cảm thấy cái chết đã gần kề. Đúng
lúc ấy, ta mơ màng nhìn thấy bà nội đứng trước mặt, bảo:
- Con đừng buồn, vận may của con sắp đến rồi!
Ta vội mở mắt. Không thấy gì hết! Chỉ nghe gió thu hiu hắt rì rào trên
những ngọn cây và tiếng ri rỉ của mấy con dế sắp chết cóng. Còn nữa, cả
một bầu trời đầy sao hấp háy nhìn ta. nhưng hễ nhắm mắt là ta lại thấy
bà nội đứng trước mặt, bảo rằng vận may sắp đến với ta, còn mở mắt thì
lại không thấy gì cả. Sáng sớm hôm sau, mặt trời đỏ rực, nhuốm hồng
những giọt sương long lanh trên cỏ, trông thật đẹp mắt! Đàn quạ kêu ầm
ĩ, bay về phía nam kinh thành. Về sau, tự nhiên ta hiểu, sáng sớm đàn
quạ bay về hướng đó để làm gì? Ta đói không chịu nổi, muốn xin chút gì
dằn bụng nhưng lại sợ tên Chột. Chợt trông thấy cái đống than bên đường
có cái thân của cây cải bẹ, liền ra nhặt về chỗ chân tường, ngồi nhai
rau ráu. Đang ăn ngon lành, ta thấy có đến mười mấy con ngựa xuất phát
từ sân Bộ Hình, trên lưng là những lính dõng quần áo nẹp đỏ, phi nước
kiệu trên con đường mới đắp vằng đất da ban màu vàng xỉn. Các lính dõng
của mình cài yêu dao, tay cầm roi ngựa, gặp người vụt người, gặp chó
đánh chó, cái phố lớn như vậy mà toắt cái trở nên vắng tanh.
Lát sau, một chiếc xe tù bằng gỗ, từ sân Bộ Hình chạy ra. Con la kéo xe tù
rất gầy, sống lưng nhọn như sống dao, chân gầy như que củi. Xe tù chở
một phạm tóc xõa, khuôn mặt mờ nhạt, mắt mũi không rõ. Xe lắc lư trên
đường, trục khô dầu, rít kin kít. Dẫn đường cho xe tù là mấy lính kỵ mã
khi nãy, sau đám kỵ mã là hơn chục lính thổi tù và. Tiềng tù và thì
không thể hình dung nổi, tì… tì… như đàn trâu khóc. Phía sau xe tù, là
một nhúm quan viên mặc triều phục, người to béo đi giữa để ria chữ bát,
trông như ria dởm dán bằng keo. Phía sau các quan viên, lại là mười mấy
kỵ mã. Đi kèm hai bên xe tù là hai người mặc quần áo màu đen, thắt lưng
to bản, đầu đội mũ đỏ, tay cầm đại đao. Hai người sắc mặt đỏ gắt – khi
ấy ta chưa biết họ bôi máu gà lên mặt – bước chân nhẹ nhàng không một
tiếng động. Bố tụi bay nhìn họ không chớp, phong độ của họ làm ta mê
mẩn! Khi ấy ta nghĩ, bao giờ mình có được cái dáng đi ấy nhỉ? Chợt ta
nghe có tiếng bà nội nói sau lưng:
- Con ơi, cậu con đấy!
Ta lập tức quay lại, sau lưng là bức tường màu xám, không có ai cả. Nhưng
ta biết bà nội đã hiển linh. Thế là ta gào lên: “Cậu ơi!” Cùng lúc ấy
như có ai đẩy mạnh ta một cái, ta mất đà, lao về phía xe tù.
Đúng là không biết trời cao đất dày! Các quan viên và đám lính kỵ mã ngớ ra. Một con ngựa giật mình cất cao hai vó trước hí vang, tên lính kỵ văng
xuống đất. Ta nhào đến trước mặt hai người áo đen tay cầm đại đao, vừa
khóc vừa nói: “Cậu ơi, thế là cháu đã tìm thấy cậu!”… Nỗi niềm bấy lâu
nay chất chứa trong lòng khiến ta trào nước mắt. Hai người áo đen cầm
đại đao cũng ngẩn người ra. Ta thấy họ đưa mắt nhìn nhau, người nọ như
có ý hỏi người kia: “Ông là cậu thằng ăn mày này à?”
Hai người áo đen chưa kịp có phản ứng gì, đám lính kỵ đã hoàn hồn vung đao
vung kiếm hè nhau xông tới vây quanh ta, kiếm quang lấp lóa trên đầu ta. Một bàn tay vạm vỡ chộp lấy cổ ta nhấc bổng lên, ta có cảm giác như
xương cổ mình gãy vụn, ta giẫy giũa trên tay họ, miệng gào to: “Cậu ơi,
cậu!”… Rồi ta bị quẳng xuống đất, đè chết tươi một con nhái. Miệng ta
vập phải đống phân ngựa còn nóng hổi.
Phía sau xe
tù, một người to béo mặt đen, đội mũ triều thiên chóp bạc bằng pha lê
màu lam, áo bào thêu con báo trắng trước ngực, ngồi ngay ngắn trên lưng
con tuấn mã. Ta hiểu đây là ông quan to. Một lính dõng khuỵu một chân
thưa lên:
- Bẩm đại nhân, một thằng ăn mày ạ!
Hai lính dõng điệu ta đến trước mặt đại quan, một tên ghìm tóc bắt ta ngẩng lên để đại quan xem mặt. Ông quan béo nhìn ta một thoáng, xì một cái,
chửi:
- Thằng ăn mày ngu xuẩn! Xéo!
Tên lính dõng thưa lên một tiếng, rồi cầm tay ta lôi sang bên kia đường, dúi ta một cái, chửi: “Cút mẹ mày đi!”.
Người ta bay theo tiếng chửi, rơi tõm xuống rãnh bùn, nước thối hoắc.
Bố tụi bay loay hoay mãi mới mò được lên bờ, mắt không mở được, tối mò. Ta vơ nắm cỏ khô lau bùn đất trên mặt. Lúc mở được mắt ra, con đường đất
ba dan bụi tung mù mịt, đội hành quyết đã đi về hướng nam. Ta nhìn theo
mà cảm thấy trong lòng ngao ngán. Lúc này, lời bà nội lại văng vẳng bên
tai: “Con nên đi xem! Người ấy là cậu con đấy!”.
Ta
nhìn quanh, tìm bà nội. Chỉ thấy con đường đất màu vàng, bãi phân ngựa
đang bốc hơi và những con chim sẻ nghiêng đầu, mắt bé tí đen láy, đang
nổ thức ăn trong đống phân ngựa. Không thấy bà nội đâu cả! “Mẹ ơi!”… Ta
buồn quá, cất tiếng khóc, tiếng khóc dài lê thê như cái rãnh nước bẩn
chạy dọc theo bên đường. Ta nhớ bà nội, oán bà nội. Mẹ ơi, mẹ bảo con
đến nhận mặt cậu, nhưng ai là cậu của con? Người ta xách cô con lên như
xách mèo xách chó, rồi quẳng con xuống cái rãnh thối, suýt nữa cái mạng
của con không còn! Lẽ nào mẹ không nhìn thấy? Mẹ ơi, mẹ có linh thiêng
thì đưa đường chỉ l