XtGem Forum catalog
Đàn Hương Hình

Đàn Hương Hình

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 324782

Bình chọn: 8.5.00/10/478 lượt.

i

mới bò được ra khỏi rãnh nước bẩn, thu mình trong một xó tối, người đau

như giần, bụng lép kẹp sôi ùng ục. Ta cảm thấy cái chết đã gần kề. Đúng

lúc ấy, ta mơ màng nhìn thấy bà nội đứng trước mặt, bảo:

- Con đừng buồn, vận may của con sắp đến rồi!

Ta vội mở mắt. Không thấy gì hết! Chỉ nghe gió thu hiu hắt rì rào trên

những ngọn cây và tiếng ri rỉ của mấy con dế sắp chết cóng. Còn nữa, cả

một bầu trời đầy sao hấp háy nhìn ta. nhưng hễ nhắm mắt là ta lại thấy

bà nội đứng trước mặt, bảo rằng vận may sắp đến với ta, còn mở mắt thì

lại không thấy gì cả. Sáng sớm hôm sau, mặt trời đỏ rực, nhuốm hồng

những giọt sương long lanh trên cỏ, trông thật đẹp mắt! Đàn quạ kêu ầm

ĩ, bay về phía nam kinh thành. Về sau, tự nhiên ta hiểu, sáng sớm đàn

quạ bay về hướng đó để làm gì? Ta đói không chịu nổi, muốn xin chút gì

dằn bụng nhưng lại sợ tên Chột. Chợt trông thấy cái đống than bên đường

có cái thân của cây cải bẹ, liền ra nhặt về chỗ chân tường, ngồi nhai

rau ráu. Đang ăn ngon lành, ta thấy có đến mười mấy con ngựa xuất phát

từ sân Bộ Hình, trên lưng là những lính dõng quần áo nẹp đỏ, phi nước

kiệu trên con đường mới đắp vằng đất da ban màu vàng xỉn. Các lính dõng

của mình cài yêu dao, tay cầm roi ngựa, gặp người vụt người, gặp chó

đánh chó, cái phố lớn như vậy mà toắt cái trở nên vắng tanh.

Lát sau, một chiếc xe tù bằng gỗ, từ sân Bộ Hình chạy ra. Con la kéo xe tù

rất gầy, sống lưng nhọn như sống dao, chân gầy như que củi. Xe tù chở

một phạm tóc xõa, khuôn mặt mờ nhạt, mắt mũi không rõ. Xe lắc lư trên

đường, trục khô dầu, rít kin kít. Dẫn đường cho xe tù là mấy lính kỵ mã

khi nãy, sau đám kỵ mã là hơn chục lính thổi tù và. Tiềng tù và thì

không thể hình dung nổi, tì… tì… như đàn trâu khóc. Phía sau xe tù, là

một nhúm quan viên mặc triều phục, người to béo đi giữa để ria chữ bát,

trông như ria dởm dán bằng keo. Phía sau các quan viên, lại là mười mấy

kỵ mã. Đi kèm hai bên xe tù là hai người mặc quần áo màu đen, thắt lưng

to bản, đầu đội mũ đỏ, tay cầm đại đao. Hai người sắc mặt đỏ gắt – khi

ấy ta chưa biết họ bôi máu gà lên mặt – bước chân nhẹ nhàng không một

tiếng động. Bố tụi bay nhìn họ không chớp, phong độ của họ làm ta mê

mẩn! Khi ấy ta nghĩ, bao giờ mình có được cái dáng đi ấy nhỉ? Chợt ta

nghe có tiếng bà nội nói sau lưng:

- Con ơi, cậu con đấy!

Ta lập tức quay lại, sau lưng là bức tường màu xám, không có ai cả. Nhưng

ta biết bà nội đã hiển linh. Thế là ta gào lên: “Cậu ơi!” Cùng lúc ấy

như có ai đẩy mạnh ta một cái, ta mất đà, lao về phía xe tù.

Đúng là không biết trời cao đất dày! Các quan viên và đám lính kỵ mã ngớ ra. Một con ngựa giật mình cất cao hai vó trước hí vang, tên lính kỵ văng

xuống đất. Ta nhào đến trước mặt hai người áo đen tay cầm đại đao, vừa

khóc vừa nói: “Cậu ơi, thế là cháu đã tìm thấy cậu!”… Nỗi niềm bấy lâu

nay chất chứa trong lòng khiến ta trào nước mắt. Hai người áo đen cầm

đại đao cũng ngẩn người ra. Ta thấy họ đưa mắt nhìn nhau, người nọ như

có ý hỏi người kia: “Ông là cậu thằng ăn mày này à?”

Hai người áo đen chưa kịp có phản ứng gì, đám lính kỵ đã hoàn hồn vung đao

vung kiếm hè nhau xông tới vây quanh ta, kiếm quang lấp lóa trên đầu ta. Một bàn tay vạm vỡ chộp lấy cổ ta nhấc bổng lên, ta có cảm giác như

xương cổ mình gãy vụn, ta giẫy giũa trên tay họ, miệng gào to: “Cậu ơi,

cậu!”… Rồi ta bị quẳng xuống đất, đè chết tươi một con nhái. Miệng ta

vập phải đống phân ngựa còn nóng hổi.

Phía sau xe

tù, một người to béo mặt đen, đội mũ triều thiên chóp bạc bằng pha lê

màu lam, áo bào thêu con báo trắng trước ngực, ngồi ngay ngắn trên lưng

con tuấn mã. Ta hiểu đây là ông quan to. Một lính dõng khuỵu một chân

thưa lên:

- Bẩm đại nhân, một thằng ăn mày ạ!

Hai lính dõng điệu ta đến trước mặt đại quan, một tên ghìm tóc bắt ta ngẩng lên để đại quan xem mặt. Ông quan béo nhìn ta một thoáng, xì một cái,

chửi:

- Thằng ăn mày ngu xuẩn! Xéo!

Tên lính dõng thưa lên một tiếng, rồi cầm tay ta lôi sang bên kia đường, dúi ta một cái, chửi: “Cút mẹ mày đi!”.

Người ta bay theo tiếng chửi, rơi tõm xuống rãnh bùn, nước thối hoắc.

Bố tụi bay loay hoay mãi mới mò được lên bờ, mắt không mở được, tối mò. Ta vơ nắm cỏ khô lau bùn đất trên mặt. Lúc mở được mắt ra, con đường đất

ba dan bụi tung mù mịt, đội hành quyết đã đi về hướng nam. Ta nhìn theo

mà cảm thấy trong lòng ngao ngán. Lúc này, lời bà nội lại văng vẳng bên

tai: “Con nên đi xem! Người ấy là cậu con đấy!”.

Ta

nhìn quanh, tìm bà nội. Chỉ thấy con đường đất màu vàng, bãi phân ngựa

đang bốc hơi và những con chim sẻ nghiêng đầu, mắt bé tí đen láy, đang

nổ thức ăn trong đống phân ngựa. Không thấy bà nội đâu cả! “Mẹ ơi!”… Ta

buồn quá, cất tiếng khóc, tiếng khóc dài lê thê như cái rãnh nước bẩn

chạy dọc theo bên đường. Ta nhớ bà nội, oán bà nội. Mẹ ơi, mẹ bảo con

đến nhận mặt cậu, nhưng ai là cậu của con? Người ta xách cô con lên như

xách mèo xách chó, rồi quẳng con xuống cái rãnh thối, suýt nữa cái mạng

của con không còn! Lẽ nào mẹ không nhìn thấy? Mẹ ơi, mẹ có linh thiêng

thì đưa đường chỉ l