
, thờ ơ quét
qua gương mặt của các binh lính từng được nghe thuyết pháp, lơ lửng trong không
gian mênh mông trên thao trường. chứng kiến công sức bao đêm vất vả tan
thành tro bụi, tôi chợt hiểu ra: Lữ Quang đang diễn trò “đánh chó để dằn mặt
chủ” đây mà.
Ông
ta không biết cách lợi dụng tôn giáo, chỉ biết đàn áp thô bạo. Ông ta sợ hãi
sức mạnh tinh thần của Rajiva, nên mới dùng cách dọa giết người để cảnh cáo
Rajiva không được phép truyền pháp.
Đưa
mắt sang bên cạnh, thấy Rajiva đang thẫn thờ nhìn theo tàn tro trong đống lửa,
vẻ u buồn thấm đẫm quầng mắt sâu hun hút. Gió cuốn theo một mảnh tro, thả trên
người chàng, chàng đưa tay đón lấy. Mảnh tro tan ra thành bụi khi chạm vào tay
chàng. Trình Hùng được cởi trói, đứng cạnh các binh sĩ khác, không dám
khóc thành tiếng, chỉ cúi đầu chùi nước mắt.
Từ
hôm đó, Rajiva không tiếp tục truyền pháp nữa, chàng trở nên thâm trầm hơn
trước rất nhiều.
Guzang
bước vào tháng mười, trời không còn oi bức nữa, sau vài trận mưa, thời tiết trở
nên mát mẻ hơn nhiều. Trương Đại Dự bị bắt ở Quảng Võ và bị giải về Guzang. Lữ
Quang xử tội và chém đầu ông ta trong thành Guzang. Cái chết của Trương Đại Dự
là lời cáo chung cho Vương triều Tiền Lương của Trương Quỹ.
Sự
kiện lớn nhất trong tháng mười là việc Lữ Quang nhận được tin từ Trường An,
rằng Phù Kiên đã bị Diêu Trường sát hại hồi tháng năm. Ông ta kêu khóc thảm
thiết, hạ lệnh cho tất cả quan lại và tướng sĩ phải mặc tang phục trong ba
tháng, dân thường khóc tiễn ba ngày. Ông ta còn dựng đàn tế Phù Kiên ở ngoại
thành phía Nam, lập tên thụy là Hoàng đế Văn Chiêu, cúng tế suốt ba ngày liền.
Sau
đó, trước sự khẩn cầu tha thiết của toàn bộ văn võ bá quan, ông ta quyết định
ban lệnh ân xá khắp vùng. Lập nước, lấy niên hiệu Thái An, tự phong mình là Thứ
sử Lương Châu, Hộ Khương hiệu úy, không lâu sau, tự xưng là Lương Châu
Mục, chính thức trở thành Vua một phương. Luận công luận thưởng, Đỗ Tấn giữ
công đầu, được phong làm Phò quốc tướng quân, Thái thú Vũ Uy, Võ thủy hầu.
Những người khác cũng đều được sắc phong, Đoàn Nghiệp được phong
làm Trước tác lang, chuyên phụ trách giấy tờ văn bản.
Rajiva
vẫn được Lữ Quang giữ bên mình, đóng vai một mưu sĩ. Ông ta chỉ coi chàng như
một thầy bói, lúc hứng lên thì hỏi vài ba quẻ, không có hứng thì lạnh nhạt, thờ
ơ. Rajiva vốn là người ngay thẳng, không chịu cúi luồn bợ đỡ, thấy việc chướng
tai gai mắt chàng không ngần ngại lên tiếng. Chàng và Lữ Quang đã nhiều phen xô
xát vì bất đồng quan điểm. Chàng đề nghị được tới bất cứ chùa nào ở Guzang tụ
tập, nhưng Lữ Quang vẫn một mực từ chối.
Thực
ra, Lữ Quang giam lỏng Rajiva chỉ vì lo ngại chàng truyền pháp trong quân sẽ
gây dựng được uy tín, hoàn toàn không phải vì ông ta muốn lắng nghe ý kiến của
chàng. Bởi vì bản thân ông ta là một kẻ cố chấp, không chịu nghe ai và luôn
nghi ngờ quần thần, ưa dùng bạo lực. Tuy không muốn can thiệp đến việc triều
chính của Lữ Quang, nhưng mỗi khi ông ta đưa ra quyết sách sai lầm, Rajiva vẫn
ra sức ngăn cản. Kết quả của những lời can gián này thế nào, không cần đoán
cũng có thể biết được. Lâu dần, Rajiva nguội lòng, không màng đến nữa. Có điều,
những tháng ngày vô vị đi theo Lữ Quang khiến Rajiva chán chường cực độ.
Lúc
rảnh rỗi, Rajiva thường tha thẩn đi hết ngôi miếu này đến ngôi chùa khác trong
thành phố, và cảnh tượng chàng được chứng kiến khiến chàng ngao ngán lắc đầu.
Nơi đây không có sự phân chia rõ ràng các giáo phái. Trong chùa, người ta thờ
chung cả Phật Thích Ca Mâu Ni và Thái Thượng Lão Quân, hòa thượng, đại sĩ không
phân biệt. Còn nhớ một mẩu chuyện cười thời Thập lục quốc kể rằng. Vua nước Nam
Yên là Mộ Dung Đức đang lúc băn khoăn không biết nên tấn công thành nào, đã mời
một hòa thượng gieo một quẻ bói bằng Chu dịch.
Rajiva
chỉ hỏi sơ vài câu đã biết những người này chẳng phải hòa thượng cũng
không phải đạo sĩ, đều là những kẻ giả danh, bọn họ không hiểu gì về Phật pháp.
Ngay cả đại danh của Rajiva cũng lờ mờ không rõ. Lại nhớ, trên đường đến
Guzang, mỗi khi tiến vào một tiểu quốc ở Tây vực, dân chúng lại chen nhau ra
đường đón chào nhiều giờ liền, chỉ vì muốn được chiêm ngưỡng dung mạo của
chàng. Quốc vương các nước đó cung kính tiếp đón vì muốn mời chàng thuyết giảng Phật pháp. Nhưng khi bước vào hành lang Hà Tây, cảnh tượng đó
không còn nữa. Danh tiếng của chàng không bằng cả tiếng tăm của một vài thầy
bói chuyên đi đuổi ma dọa quỷ, dối gạt người khác để kiếm cơm. Lương Châu giống
như một hoang mạc của tín ngưỡng Phật giáo.
Tôi
rất mực dịu dàng, mô tả viễn cảnh tươi đẹp để động viên chàng. Tuy không nói
ra, nhưng tôi biết chàng đang rất hoang mang khi đứng trước “hoang mạc”
này, chàng đã phải gắng gượng để kiềm chế nỗi thất vọng mãnh liệt. Rajiva bị ép
phải sống đời sống thế tục, hàng ngày theo hầu Lữ Quang đúng giờ. Nhưng chàng
kiên quyết không để tóc, chàng vẫn mặc y phục của tăng lữ, vẫn thức giấc rất
sớm tụng kinh buổi sáng, buổi tối vẫn chăm chỉ đọc sách để trau dồi trình độ
tiếng Hán. Phần lớn văn võ bá quan của Lương Châ