
n còn sống sót và cả người đứng giữa đám đông nạn dân ấy: Rajiva.
Lữ
Thiệu cho người khiêng tới mấy chục sọt bánh màn thầu, đám đông nạn dân lao tới
như hổ đói. Không đủ sức để chạy nữa, họ bò lê dưới đất nhận đồ ăn. Những tiếng
nhai nuốt nhồm nhoàm, rào rào vang khắp không gian, như ngấu nghiến vào thần
kinh của mỗi người đang có mặt ở đó. Có người ăn nhanh quá, màn thầu tắc nghẹn
trong cổ họng, không thở được, không ai giúp. Khi chúng tôi phát hiện ra thì đã
tắt thở. Lữ Thiệu lạnh lùng thông báo lệnh chia ruộng phát hạt giống, yêu cầu
dân vùng thiên tai nhanh chóng đăng ký và lập tức trở về quê hương tiếp tục
trồng cấy.
Không
có lời cảm ơn, không mảy may xúc động, tất cả các nạn dân đều khóc khi nhận hạt
giống. Tôi bế Cẩu Nhi đứng ở điểm đăng ký, chờ đợi cả ngày vẫn không thấy bóng
dáng người phụ nữ có tên Tần Tố Nga đâu. Tôi đã dò hỏi nhưng không ai hay biết.
Tôi liền đến tìm Đoàn Nghiệp, vì ông ấy có danh sách các binh sĩ. Tìm mãi mới
thấy một dòng tên bị gạch ngang đỏ chói: Ngụy Trường Hỷ, người Liễu Viên,
Đôn Hoàng.
Tôi
ôm bé Cẩu Nhi về nhà, trên đường đi gặp toàn những người dân vùng thiên tai đã
nhận được hạt giống, đang chuẩn bị trở về quê cũ. Tôi đứng bên lề đường, chăm
chú quan sát từng người phụ nữ qua lại, mong gặp được mẹ của Cẩu Nhi. Em đã mất
đi người cha, tôi cầu mong em không phải trở thành trẻ mồ côi. Trời bắt đầu tối
dần, gió lớn cuốn tung những đám bụi, quất vào tấm thân còm cõi của những con
người may mắn sống sót. Họ là những bóng hình lẻ loi, cô độc, đang lê đi trong
vô định với nỗi hoang mang, buồn thảm. Tôi chợt nhớ đến bài dân ca Bắc Triều
“Bài ca Lũng Sơn” mà lòng nhói đau:
“Nước
nguồn Lũng Sơn chia về muôn ngả
Nào
khác phận mình, biền biệt quê xa Sáng rời Hân Thành, tối ngủ Lũng Sơn Rét run
cầm cập, lầm lũi, tủi hờn. Dưới băng nước chảy, rặt tiếng kêu thương
Trông
về quê cũ, lòng đau dạ sờn”.
Nhẩm
đọc bài thơ não nùng kia, tôi lại hình dung ra hình ảnh những con người hồi
hương này cô độc lê đi trên những chặng đường núi non cheo leo, hiểm trở, tiết
xuân se lạnh không làm dịu đi nỗi ám ảnh kinh hoàng, không làm vơi đi nỗi đớn
đau và hoang mang tột cùng trong lòng họ. Có lẽ họ sẽ chẳng thể ngon giấc trong
suốt phần đời còn lại. Về đến nhà thì thấy hơn một nửa số nạn dân được chúng
tôi cưu mang đã ra đi, vì dường như ai nấy đều muốn nhanh chóng rời khỏi vùng
đất ác mộng này. Thời gian còn lại trong ngày, tôi dành để nựng Cẩu Nhi thôi
khóc và cùng Rajiva tiếp nhận những lời từ biệt. Đến tối, tôi thấy căn
phòng của mình đã hoàn toàn trống trải. Đây là đêm đầu tiên sau nhiều tháng,
chỉ có hai chúng tôi trong không gian của riêng mình.
Tôi
bưng nước ấm vào cho Rajiva rửa ráy. Chậu nước ấm này là công sức suốt một buổi
chiều kiếm củi ở ngoại thành của Hô Diên Bình. Rajiva đang trầm ngâm bên cửa
sổ, tôi gọi mãi mới quay lại, lẳng lặng rửa ráy. Xong xuôi, chàng lại trở về vị
trí cũ.
-
Đang nghĩ gì vậy?
Tôi
định quét dọn phòng ngủ, nhưng không yên lòng khi thấy chàng cứ mãi im lặng.
Chàng
không quay lại nhìn tôi mà chăm chú ngắm nhìn vầng trăng lạnh lẽo chênh chếch
ngoài cửa sổ, giọng chàng rì rầm như tiếng suối ngày đông giá buốt:
-
Ngải Tình, nàng còn nhớ, vào cái ngày bắt đầu xảy ra nạn đói, ta đã hứa không
để ai phải chết đói không?
Tôi
thở dài, vậy là chàng vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện đó.
-
Rajiva, đừng tự trách nữa… - Không phải ta tự trách.
Chàng
nhẹ nhàng cắt lời tôi, ánh mắt như muốn trải bày:
-
Chúng ta đã dốc toàn bộ sức lực để cứu người. Ta cứ nghĩ làm vậy sẽ không để ai
phải chết đói, nhưng kết quả, chúng ta chỉ giúp được hai trăm người. Ta đem bán
toàn bộ tài sản của mình cũng chỉ cứu được hai trăm mạng người trong số
hơn mười vạn nạn dân. Tháng cuối cùng của trận đói, phải nhờ vào cuộc trao đổi
của nàng với Mông Tốn, cả nhà ta mới có thể tiếp tục sinh tồn.
Chàng
chìa hai bàn tay với những đốt dài, gầy guộc ra trước mặt, lật qua lật lại quan
sát thật kỹ, rồi bật cười chua chát:
-
Thì ra khả năng của ta lại nhỏ bé nhường vậy!
Chàng
buông thõng tay xuống, tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ:
-
Nếu lúc xưa ta thuận theo ý Lữ Quang, bày ra vài quẻ bói để gạt ông ta, nếu ta
chịu đặt sang bên lòng tự tôn cá nhân để cầu xin ông ta ban chỗ ở và lương thực
cho những nạn dân đó, thì có thể cứu sống thêm bao nhiêu người nữa?
Tôi
ngẩng lên nhìn chàng. Dưới ánh trăng bàng bạc, con người ấy tựa như một thân
cây cô lẻ, ánh sáng chiếu nghiêng, hắt lên những đường nét sáng rõ của gương mặt
chàng. Chàng cười buồn, vẻ bất lực thấm trong âm hưởng thê thiết của giọng nói:
-
Ít nhất không chỉ hai trăm con người đó. Đầu óc tôi rối bời, không sao chắt ra
được một câu chữ hoàn chỉnh, lời chàng chua chát vang bên tai:
-
Và nếu như, ta có thể thuyết phục Lữ Thiệu hủy lệnh đóng cửa thành, thì còn có
thể cứu sống thêm bao nhiêu người nữa?
Chàng
quay lại nhìn tôi, nụ cười khổ sở đè nặng trên khóe môi:
-
Ngải Tình, xưa nay ta luôn tin tưởng và ra sức bảo vệ những giá trị mà ta cho
là cao quý, tránh xa nhữn