
g xô bồ trần tục, cứ ngỡ làm vậy là đúng. Nhưng sau
thảm kịch này, ta nhận thấy mình là kẻ không biết cân nhắc thiệt hơn.
Chàng
ngửa đầu lên, để vầng trăng chiếu rọi vào đôi đồng tử màu xám nhạt, tỏa ra thứ
ánh sáng lung linh, giọng chàng đượm buồn:
-
Thuật trị dân mà nàng truyền dạy cho Mông Tốn nhấn mạnh: để đạt được mục đích
có thể bất chấp thủ đoạn. Phật pháp Đại Thừa cũng có thuyết: tùy cơ hành sự,
miễn sao đạt được sự thuận tiện. Nhưng ta đã quá ư kiêu ngạo, không chịu kết
giao với họ Lữ kia. Ta đã quên rằng, dù bọn họ có hung ác, tàn bạo đến đâu, họ
vẫn là vua một nước, số phận của muôn dân nằm trong tay họ. Lẽ ra ta đã có thể
cứu giúp nhiều người hơn nữa, nhưng lại bảo thủ, sức mình hèn mọn mà đòi một
tay chống đỡ cả bầu trời, thật đáng chê cười!
-
Rajiva…
Như
không nghe thấy tiếng gọi khe khẽ của tôi, chàng vẫn lặng lẽ đắm chìm trong thế
giới của riêng mình.:
-
Hồi nhỏ đến Kabul học đạo, ta được kể cho nghe câu chuyện này. Ngày đó Vua
Kabul bắt được một chú chim nhỏ, Vua muốn nghe chim hót, nhưng suốt ba năm,
chim không hề cất lên tiếng nào. Hoàng hậu gợi ý rằng: nghe đồn, loài chim sẽ
cất tiếng hót khi trông thấy đồng loại, hãy đặt vào lồng một tấm gương, để chú chim tưởng rằng được gặp đồng loại. Vua làm theo cách đó, quả
nhiên chú chim nhỏ đã cất tiếng khi nhìn thấy bóng mình trong gương, nhưng đó
là tiếng kêu ai oán thấu tận trời xanh, chú chim đã hót vang cho đến khi đứt
hơi mà chết.
Chàng ngước lên vầng trăng lạnh lẽo ngoài kia, vẻ cô quạnh, lẻ loi như một thứ
định mệnh dai dẳng, vây khốn lấy chàng. Trầm tư giây lát, giọng nói phiêu linh
lại vang lên trong đêm tịch mịch:
-
Ngải Tình, kể từ khi đến Guzang, ta không cứu được người cũng không thể
thuyết pháp, nhìn ra xung quanh, thấy mình như một vật thể cô đơn, lẻ loi và
rất đỗi hoang mang. Ta giống như chú chim nhỏ trong câu chuyện kia, cất
tiếng kêu đơn độc, vô vọng trên cành cây khô héo. Lẽ nào, ta phải dựa dẫm vào
kẻ là vua một nước nhưng giết người không nương tay, coi mạng người như cỏ rác
ấy, mới có thể cứu nhân độ thế, mới có thể truyền bá Phật pháp ư?
Nước
mắt chứa chan, sống mũi tôi cay xè. Một con người phẩm cách cao thượng, không
mảy may vương chút bụi trần như chàng, nếu không tận mắt chứng kiến và tự thân
trải nghiệm những khổ nạn vừa qua, sao có thể gạt sang bên lòng tự tôn để suy
sét những vấn đề vô cùng khó khăn đối với tư tưởng truyền thống và khí khái cao
ngạo của chàng kia chứ!
Tựa
vào bờ vai luôn khiến tôi được vững dạ của chàng, tôi thở dài, nói:
-
Danh sư Thích Đạo An, người từng cầu đến sự giúp đỡ của Phù Kiên nói rằng: “Không
dựa vào nhà cầm quyền, khó lòng phát triển Phật pháp”. Ngày trước ở Tây
vực chàng được mọi người tôn vinh, chủ yếu là bởi xuất thân của chàng, hoàng
thất Khâu Từ đã hậu thuẫn cho chàng, là chỗ dựa vững chắc của chàng. Phật
giáo là quốc giáo ở Tây vực, chàng xuất thân từ gia đình quý tộc, nên dĩ nhiên
không cần suy nghĩ đến vấn đề phải dựa vào quyền lực của Vua chúa để truyền bá
đạo Phật. Nhưng Trung Nguyên thì khác. Những ưu thế chàng có được ở Tây vực đã
trở nên vô nghĩa khi đến Trung Nguyên. Nơi đây, Phật pháp không mấy phát triển,
không ai quan tâm đến xuất thân của chàng, không quý tộc vương tôn nào ủng hộ
tư tưởng của chàng.
Chàng
hướng sang tôi, nỗi buồn trong đáy mắt đậm sâu. Tôi đưa tay vuốt ve hàng lông
mày đang nhíu lại của chàng xót xa khi thấy những nếp nhăn cứ ngày một sâu hơn
trên khóe mắt chàng:
-
Rajiva, chàng nên học theo Phật tổ. Ngài có xuất thân tương tự chàng,
cũng là một thành viên trong hoàng thất của một tiểu quốc. Ngài đã ra sức
truyền bá đạo Phật ở Thiên Trúc, nơi mà toàn dân đều đã tin theo đạo Bà La Môn.
So với nhiệm vụ truyền bá đạo Phật ở vùng đất Trung Nguyên này của chàng,
công việc của Phật tổ gian nan hơn rất nhiều. Dù sao chàng cũng có hai mươi tư
đệ tử trợ giúp chàng truyền đạo, Phật tổ khi ấy mới chỉ có năm đệ tử. Để hoàn
thành sứ mệnh, Ngài đã phải khổ công nhường nào!
Tôi
ngừng lại một lát, xâu chuỗi những tư liệu đã đọc được:
-
Đối với tầng lớp quý tộc, Ngài kết giao với Vua chúa. Con trai vua Bình Sa
(Bimbisara) là thế tử A Xà Thế (Ajatasatru) giết hại vua cha để cướp ngôi, sau
đó tìm đến Phật Thích Ca xưng tội, Đức Phật đã rộng lòng an ủi A Xà Thế. Đối
với tầng lớp trung lưu, ngài đã liên lạc với các nhà buôn, thuyết phục những
cười giàu có làm cư sĩ (đệ tử tu tại gia), tiếp nhận món quà là khu vườn tịnh
xá của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika). Đối với dân thường, Ngài kết giao
với cả kỹ nữ, ví như việc Ngài nhận lời mời dùng bữa với nàng kỹ nữ Ambapali và
còn vui vẻ nhận vườn hoa mà cô kỹ nữ này có nhã ý tặng Phật. Em tin rằng chàng
làu thuộc những điển tích này hơn em.
Tôi
lồng tay vào tay chàng, mỉm cười:
-
Phật tổ đắc đạo năm ba mươi lăm tuổi, cuộc đời truyền pháp của Ngài kéo dài
bốn, năm mươi năm, Ngài viên tịch năm tám mươi tuổi, tính đến khi ấy Ngài cũng
mới chỉ có khoảng năm trăm đệ tử. Nhưng chàng xem, ngay tại thời điểm này, số
lượng nhà sư ở Trung Nguyên ch