
ắc chắn không chỉ năm trăm người. Mười sáu năm
sau, tại Trường An, chàng đã thu nhận ba nghìn đệ tử. Năm mươi năm sau, Bắc
Ngụy tiêu diệt nhà Bắc Lương của Mông Tốn, đã đưa hơn ba nghìn tăng sĩ đến kinh
đô của Bắc Ngụy. Như vậy có thể thấy, chỉ trong vòng năm mươi năm, Phật giáo đã
phát triển rộng rãi đến nhường nào trên mảnh đất Trung Nguyên này… Bởi
vậy, chàng không phải chú chim nhỏ cô độc, chàng còn có em, còn có các đệ tử
một lòng đi theo chàng, còn có cả một vùng đất khổ nạn đang thiếu thốn
trầm trọng những nâng đỡ về tư tưởng và tinh thần. Không đến Trung Nguyên,
chàng sẽ chỉ là một cao tăng được người ta kính trọng ở một tiểu quốc trên một
ốc đảo xa xôi, theo đà quay không ngừng nghỉ của bánh xe thời gian, chàng sẽ
chỉ là một hạt cát nhỏ bé vô danh lẫn giữa dòng sông lịch sử bao la. Mảnh đất
Trung Nguyên, nơi mà Phật pháp còn đang trong giai đoạn phát triển yếu ớt này
chính là miền đất hứa để chàng phát huy tài năng, trí tuệ và hoàn thành sứ
mệnh. Nơi này cần có chàng, chỉ cần chàng có đủ lòng kiên nhẫn để bắt đầu lại
từ đầu.
-
Ngải Tình…
Chàng
thở dài, nỗi cô đơn trong mắt trôi xa, ánh mắt chàng ấm lại, chàng kéo tôi vào
lòng, giọng nói đã hết bi lụy:
-
Nàng luôn biết cách kéo ta ra khỏi nỗi u mê. Bắt đầu lại từ đầu ư, ta đồng ý,
ta sẽ gắng sức, ta sẽ không than thở, oán trách nữa, sẽ không tự cao tự đại
nữa.
Nụ
cười tỏa rạng trên gương mặt xanh xao của chàng:
-
Cưới được một người vợ như nàng, đó là ơn huệ mà Phật tổ ban tặng cho ta. Chàng
ghé sát vào tai tôi, thì thầm:
-
Cảm ơn nàng, vợ yêu…
Hơi
nóng từ hơi thở của chàng phả vào tai tôi, khiến hai má tôi nóng bừng, tôi gắng
trấn tĩnh lại, suy nghĩ một lát, nhắc nhở chàng:
-
Nhưng cha con họ Lữ đã nhiều lần xung đột với chàng, bọn họ cũng không phải là
thế lực chàng có thể nhờ cậy. Những ghi chép về chàng trong suốt mười bảy năm ở
Lương Châu này rất ít ỏi, điều đó chứng tỏ chàng và họ Lữ kia không thể hòa
hợp.
Chàng
ngẩng đầu, vòng tay qua eo tôi, cánh tay truyền đến sức mạnh của sự kiên định:
-
Vậy thì ta sẽ chờ, chờ cho đến khi một vị minh quân xuất hiện, sẵn lòng lắng
nghe lời khuyên của ta, chăm lo cho muôn dân và có thể trợ giúp ta hoàn thành
sứ mệnh truyền bá Phật pháp.
-
Nhưng phải mất mười sáu năm nữa Diêu Hưng mới phong chàng làm quốc sư.
Nụ
cười bi lụy ban nãy đã chuyển thành nụ cười tươi tắn của lòng tin và của sự
kiên tâm bền bỉ thường thấy ở chàng. Chàng tựa cằm lên đỉnh đầu tôi, giọng
chàng trầm ấm truyền đến tai tôi:
-
Mười sáu năm có là bao. Chờ đợi không phải việc gì khó đối với ta. Ta sẽ gắng
sống đời ẩn dật, chờ đến ngày ấy.
Cảm
động không nói nên lời, tôi chỉ biết vòng tay ôm chặt lấy chàng và ước mong sao
hai chúng tôi sẽ có thể hợp nhất.
-
Em sẽ ở bên chàng, chúng ta cùng đợi…
-
Ừ…
Chàng
dịu dàng vuốt tóc tôi, khẽ đặt một nụ hôn lên trán tôi:
- Ngải Tình, trong thành Guzang này không có ngôi chùa nào khang
trang cả, từ lâu ta đã có ý định kêu gọi quyên góp, cúng dường để xây chùa. Hôm
nay, khi đứng trên ngọn núi phía Nam, nơi tập trung dân chúng vùng thiên tai
ấy, ta chợt nảy ra ý tưởng này.
Chàng
suy nghĩ một lát, lại tiếp tục:
-
Ta muốn xây chùa hang đá trên ngọn núi ấy, để siêu độ cho những chúng sinh
thiếu may mắn thoát khỏi bể khổ, sớm được đầu thai ở kiếp khác.
-
Vâng.
Tôi
ngước nhìn chàng, vui mừng, phấn chấn. Vậy là chàng đã có một mục tiêu, chàng
có thể từng bước thực hiện mục tiêu này để vượt qua mười sáu năm trời đằng
đẵng.
-
Chi bằng, ngày mai chúng ta hãy đến gặp Lý Cảo. Nếu ông ta có thể học theo
trưởng giả Cấp Cô Độc, quyên tặng vườn hoa, lại dùng vô số tiền vàng trải khắp
vườn hoa ấy, thì còn gì bằng, ha ha. Buồn cười vì những suy nghĩ hài hước của
mình, tôi bật cười ha hả.
Chàng cốc nhẹ vào đầu tôi, cũng bật cười theo:
-
Không thể đâu! Ông ấy chịu quyên góp đã quý lắm rồi.
Tôi
hớn hở, lúc lắc tay chàng, hào hứng tưởng tượng:
-Chúng
ta còn có thể đến gặp Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp, thuyết phục họ quyên góp.
Tôi
vô cùng hoan hỉ khi thấy chàng đã lấy lại được sự tự tin. Hôm nay, lúc ở trên
núi, tôi tin rằng việc tôi chảy máu cam không phải là dấu hiệu hay nguy cơ gì
cả, mà chỉ vì tôi quá ư mệt mỏi và sợ hãi mà thôi…
Chúng
tôi được tiếp đón rất chu đáo ở dinh cơ của Lý Cảo. Ông ta tỏ ra cung kính và
tôi có thể nhận thấy trên gương mặt Lý Cảo sự áy náy về chuyện cứu trợ
lúc trước. Sau khi Rajiva trình bày lý do của cuộc gặp gỡ, ông ta đã lập tức
tán đồng:
-
Suy nghĩ của pháp sư là hoàn toàn đúng đắn, ngọn núi Bậc Thang ấy…
Tôi
“A” lên một tiếng, ngắt lời Lý Cảo:
-
Lý công tử vừa nói ngọn núi đó tên là gì?
Lý
Cảo ngạc nhiên đáp:
-
Núi Bậc Thang. - Không phải tên là núi Màn Thầu sao?
-
Đó là tên gọi thông tục, tên chính xác của ngọn núi ấy là Bậc Thang, tên gọi
này do vua Trương Quỹ nhà Tiền Lương đặt. Nhưng bà con quen gọi là núi Màn
Thầu, không ai chịu đổi cách gọi.
Rồi
ông ta nhìn tôi ngạc nhiên:
-
Vì sao phu nhân lại tỏ ra hào hứng với tên gọi của ngọn núi đó vậy?
-
À… không có gì, chỉ vì tôi hơi tò m