
ò thôi.
Tôi
cười gượng gạo, nhấp một ngụm trà, im lặng, để Rajiva tiếp tục bàn bạc chi tiết
với Lý Cảo.
Bây
giờ tôi mới biết, núi Màn Thầu mà người dân Guzang thường gọi chính là núi Bậc
Thang được ghi chép trong sách sử. Do chiến tranh xảy ra liên miên, lại trải
qua nhiều trận động đất, nên những bức bích họa trong chùa hang đá trên núi Bậc
Thang ở Vũ Uy không còn giữ được nguyên vẹn, vào thời hiện đại, chùa không mấy nổi
tiếng. Nhưng đó là ngôi chùa hang đá đầu tiên ở Trung Nguyên, điều này có ý
nghĩa vô cùng to lớn. Sau khi tiêu diệt Bắc Lương, vua Bắc Ngụy đã đưa
hàng loạt nhà sư đến kinh đô Bình Thành (nay là Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc),
bên cạnh đó là hàng loạt các nhà điêu khắc, thợ thủ công lành nghề, họa sĩ, những người chuyên khai mở động đá và sáng tạo nên những bức bích họa. Họ
đã trở thành lực lượng nghệ nhân hùng hậu, là những người xây dựng nên thạch
động Vân Cương vĩ đại ở Đại Đồng. Sau đó, Vua Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy dời đô
đến Lạc Dương, tiếp tục xây dựng thạch động Long Môn, thạch động này đã thừa kế
mô hình thạch động ở Lương Châu ngày trước…
Phần
lớn các nhà sư ở Lương Châu đều được đưa đến Bình Thành, nhưng vẫn có một số ít
di chuyển tới Đôn Hoàng ở phía Tây. Kiến trúc của thạch động Mạc Cao ở Đôn
Hoàng cũng chịu ảnh hưởng từ thạch động trên núi Bậc Thang. Bởi vậy, có thể
khẳng định một cách chắc chắn rằng, thạch động trên núi Bậc Thang chính là nơi
khởi thủy của nghệ thuật xây dựng thạch động ở Trung Nguyên. Nhưng một câu hỏi
cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi nhớ là thạch động Bậc Thang được xây dựng vào
năm 412 kia mà, và chính Mông Tốn, sau khi dời đô từ Trương Dịch đến Guzang đã
hạ lệnh xây dựng thạch động này. Chuyện kể rằng, mẹ Mông Tốn lâm bệnh nặng,
Mông Tốn đã cho điêu khắc trong thạch động một bức tượng cao năm mét, hình
những giọt nước mắt, để cầu phúc cho mẹ mình, cũng là để biểu thị lòng ăn năn,
sám hối.
Rất
nhiều ghi chép cho thấy, Rajiva đã không thành công trong việc thực hiện kế
hoạch xây chùa, mà chính Mông Tốn đã hoàn thành tâm nguyện này của chàng. Rốt
cuộc, chuyện gì đã xảy ra? Vì sao suốt mười sáu năm Rajiva không thể xây được
chùa ở Guzang? Không có trong tay tư liệu lịch sử để có thể suy đoán, nên tôi
cũng chỉ đành chống mắt chờ xem việc gì sẽ diễn ra. Nhìn chàng đang hào hứng mô
tả cấu trúc của ngôi chùa hang đá cho Lý Cảo nghe, tôi suy nghĩ một lát và
quyết định không nói với chàng chuyện kia. Khó khăn lắm chàng mới tìm được cho
mình một mục tiêu, tôi không nỡ phá hỏng niềm vui của chàng. Nhớ đến Mông Tốn,
bất giác thở phào. Ngay ngày Lữ Quang trở về Guzang, Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp đã mang đến cho chúng tôi lương thực và vật dụng sinh hoạt cần thiết. Bởi
vậy tôi không cần đến nhà Mông Tốn giảng bài nữa. Tôi đến đó chỉ để đổi lấy lương
thực, nay lương thực đã có đủ, tôi không muốn phải ngày ngày đối diện với con
người xảo quyệt, gian hùng ấy trong nỗi thấp thỏm lo âu nữa. Nhưng tôi biết
chắc chắn anh ta sẽ không dễ dàng từ bỏ như vậy. Có thể, chỉ vài ngày nữa, tôi
sẽ chạm mặt anh ta cũng nên!
Chúng
tôi rời khỏi nhà Lý Cảo, đi qua lầu trống vẫn thấy hàng dài những người dân
vùng thiên tai, mặt mày ủ rũ đứng xếp hàng nhận hạt giống. Hôm nay là hạn đăng
ký cuối cùng, không có các cậu ấm nhà họ Lữ, chỉ thấy con trai thứ của Lữ Bảo
(em trai Lữ Quang) là Lữ Siêu đang giám sát việc đăng ký. Lữ Siêu mới hai mươi
tuổi, nhưng tâm địa nham hiểm hơn mấy người anh em họ của hắn rất nhiều. Lữ
Soạn soán ngôi chưa đầy ba năm, đã bị Lữ Siêu giết chết, sau đó hắn đưa người
anh ruột Lữ Long của mình lên ngôi vua. Nhớ đến những ghi chép về việc Rajiva
dự báo Lữ Siêu sẽ giết Lữ Soạn trong sách “Tấn thư” mà tôi không nhịn nổi cười.
Rajiva
cúi đầu hỏi:
-
Cười gì vậy?
Tôi
ghé sát vào tai chàng, thì thầm:
-
Sử sách viết rằng, chàng chơi cờ với Lữ Soạn. Hắn ăn một quân của chàng và bảo
rằng: “Lấy đầu Hồ nô”[1'>. Chàng đáp lại: “Hồ nô lấy đầu ngài thì có”.
[1'>
Hồ nô: Nghĩa là tên nô lệ người Hồ, vốn là cách gọi miệt thị của người Hán đối
với dân tộc thiểu số, du mục ở phía Bắc và phía Tây Trung Quốc, trong trường
hợp này, cụm từ “lấy đầu Hồ nô” biểu thị tính hiếu chiến, ác bá của Lữ Siêu.
Tôi
đưa mắt về phía Lữ Siêu đang đứng giữa đám đông, chu mỏ lém lĩnh:
-
Tên chữ của Lữ Siêu là Hồ Nô, nên đoạn sử này là căn cứ để chứng minh cho tài
năng tiên đoán của chàng.
Rajiva hết ngơ ngác nhìn Lữ Siêu, lại ngạc nhiên quay sang nhìn tôi, sau đó thì
lắc đầu cười trừ.
Tôi
nhận ra Hô Diên Bình giữa đám đông. Mấy ngày trước, tôi đều bế Cẩu Nhi đứng chờ
ở điểm đăng ký, nhưng không có kết quả. Hôm nay phải đến gặp Lý Cảo, nên tôi
nhờ Hô Diên Bình thay tôi đến đây chờ. Nhìn thấy chúng tôi, anh ta vội bước
lại.
-
Pháp sư, phu nhân!
Anh
ta cúi chào chúng tôi với vẻ buồn bã.
-
Phu nhân, tôi vừa gặp một đồng hương của Tần Tố Nga, tôi đã có thông tin về mẹ
Cẩu Nhi…
-
Tình hình thế nào? Tôi sốt ruột. Gương mặt đôn hậu ấy nhuốm vẻ buồn bã, giọng
nói đầy bi lụy: - Cô ấy… đã… chết…
Tôi
nhắm mắt lại, quay đầu đi, vẫn là kết c