
hư thế!”.
An Thanh vương lắc đầu:
“Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế
vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc
mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã
sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng
làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.
Khuôn mặt gầy yếu của
Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của
họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó,
đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không
phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm này, chắc cũng đã có thể lẳng
lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh
đao”. Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù
trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy
biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống
chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá
xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà.
Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của
Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng
tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái,
Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm
lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi
Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai
vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.
Ba năm nắm binh quyền vừa
rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ
Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành
gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã
lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho
họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay.
Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn
hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.
An Thanh vương nhìn bức
thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng
phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không
biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con
không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.
Ông lại viết cho Tử Ly:
“Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”. Gắn si niêm phong
xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe
đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao
tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người
cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười
lăm ngày phải gặp được thân vương!”.
Xích Phong quỳ sụp xuống,
trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.
Xích Phong đi khỏi, An
Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.
Một bóng đen bay vào thư
phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.
“Ngươi có thân thủ tốt
nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly
Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về
Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.
Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương
gia không tin Xích Phong?”.
“Không phải không tin,
việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải
đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.
Ám Dạ không hỏi nữa, nhận
ấn tín, lẳng lặng lui ra.
Khi Lưu Giác đi Lâm Nam
mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại
ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp
tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.
Mọi việc xong xuôi, An
Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió.
Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông.
Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng
lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho
con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên
cũng thế.
Trở về tướng phủ, Lý
tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.
A La rất bình tĩnh trả lời:
“Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.
Nhìn vẻ mặt tươi cười của
Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không
tồi!”.
Lý tướng kinh ngạc, con
bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như
thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần
thần lắm.