
không đích thân đến, chỉ mượn một tấm ảnh, cũng sẽ ngã vào trong hồ nước xang lam sâu thẳm đó, cam nguyện mơ một giấc mơ đi xa. Ký ức lờ mờ sẽ đưa chúng ta rời đến niên đại xa
xôi, muốn thử tìm kiếm biển biếc nương dâu của quá khứ từ trong một mặt
nước hồ.
Ba trăm năm trước, Tsangyang Gyatso bị sứ giả Khang Hy
phái đi và quân đội của Lha-bzang Khan áp giải đến đây, ở bên hồ Thanh
Hải, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Cái ngày lẫn lộn khó phân đó, đến nay vẫn khiến người ta không ngừng truy cứu, nhưng trước sau không tìm được một chút manh mối nào. Lịch sử cũng từng đưa ra nhiều ghi chép, nhưng
trước sau không có một câu trả lời xác định. Có lẽ vì sự phi phàm của
Tsangyang Gyatso, mọi người bằng lòng rằng kết thúc đó là một câu đố
vĩnh viễn không thể giải đáp, như vậy trong lòng một vạn người, sẽ có
thể sinh ra một vạn kiểu tưởng tượng.
Lịch sử xưa nay không có
chân thực tuyệt đối, trải qua gọt giũa trau chuốt của muôn ngàn người
đời, nó sớm đã mất đi dáng vẻ ban đầu, chỉ lưu lại một số dấu vết thoắt
ẩn thoắt hiện, chờ người sau suy đoán tìm tòi. Biết bao chân tướng chìm
sâu trong nước biếc trời cao, chẳng có lấy một bọt sóng đẹp đẽ. Hồ Thanh Hải không lời, nó là tượng trưng của thần linh, tỏ tường tất cả quá
khứ, nhưng không thể để chân tướng bộc bạch. Chân tướng ẩn náu trong
nước hồ, hóa thành bí mật vĩnh viễn.
Ở hồ Thanh Hải, có nhiều tin đồn dân gian, bởi vì hư ảo mà càng mê ly. Những tin đồn đó giống như
thơ tình của Tsangyang Gyatso, có thể diễn dịch ra hơn trăm thứ câu chữ
khác nhau, chúng ta chỉ cần chọn một bản mình thích là được. Duy có một
bản không ai chịu tin, không một ai tin cuộc đời của Tsangyang Gyatso sẽ chung kết hạ màn ở hồ Thanh Hải. Ngài là Phật sống, là tượng trưng của
thần, không ai có thể hỏi tội Ngài, có thể giam cầm cuộc đời Ngài, càng
không ai có thể sắp xếp kết cuộc của Ngài. Dù chết, cũng nên có cách
chết của Phật sống, chết một cách cao ngạo.
Có người suy đoán,
hay là Tsangyang Gyatso nhìn thấy mặt nước hồ này, liền không muốn rời
khỏi nữa. Cuối cùng Ngài vẫn không thể rời được núi thần hồ thánh nơi
đây, không rời được các tín đồ ủng hộ Ngài, do đó Ngài không cam lòng bị lưu đày, thà rằng lẳng lặng ẩn tích ở đây. Hoặc giả Ngài đã sớm sắp xếp sẵn một kết cuộc như câu đố cho bản thân, chính là vì muốn người đời
mãi mãi không thể quên Ngài. Ngài là Phật sống, không cần giao phó với
bất cứ ai, đối với Ngài, vua chúa nhân gian chẳng qua chỉ là một kiểu
tồn tại hão.
Vì Ngài coi khinh kiếp sống qua ngày, hay là số mệnh có sắp xếp khác? Tóm lại chẳng nơi nào có thể tìm được. Cảnh giới tối
cao nhà Phật nói là Niết bàn[2'> sống lại, chẳng lẽ Tsangyang Gyatso mượn nước hồ này, đạp sóng ngồi thuyền, đến bờ bên kia, ngắm hoa sen Ban
Nhược nở rộ? Nhưng bao nhiêu người vì tìm kiếm Ngài, trăng mờ bến đò,
lang thang không chốn nương thân ở đây, mà vẫn si tâm không đổi. Song
chung quy có một vầng mặt trời đỏ canh giữ ở đây, ánh vàng lóng lánh ấy
như ánh sáng của từ bi, ánh sáng của cát tường tỏa ra từ giữa vầng trán
Phật tổ, vô tư chiếu rọi khắp đất đai non sông. Mọi người tắm gội trong
ánh vàng, có thể hưởng thụ sự bình đẳng và khoan hậu mà thiên nhiên ban
cho.
[2'> Niết bàn: là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn
“nirvāṇa”, nghĩa là bị dập tắt, thổi tắt. Thuật ngữ nirvāṇa cũng được
dịch nghĩa là Diệt, Diệt tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất sinh, Viên tịch,
và vì sự tịch diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên
nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát, Vô vi, An lạc.
Đã ba trăm năm, không biết là thời gian vô tình, hay là con người vô tình, chúng
ta thật sự không cần so đo tính toán. Trầm ngâm suy nghĩ, không biết
người thế nào mới có thể đổi sắc cùng nước hồ Thanh Hải, tình cảm thế
nào mới có thể sánh ngang với vẻ đẹp trong thơ ca của Tsangyang Gyatso?
Lưu lại, phải chăng là chờ đợi hư vọng? Rời đi, lại phải chăng là tràn
đầy buồn rầu? Lúc đến, cho rằng nơi đây chính là quê hương, khoác tay
nải lên, vẫn làm lại khách qua đường như cũ.
Thế gian biết bao
việc không lời kể được, không dạng hình dung, chỉ là một áng mây màu
lững lờ, một luồng gió mát rong ruổi. Thứ chúng ta có thể nắm bắt chẳng
qua chỉ là chút ít hư ảo, nhưng vẫn cam nguyện mê muội vì hư ảo.
Năm tháng luôn lưu lại cho chúng ta quá nhiều câu đố, vậy thì ai là người
giải đố? Chính vì có nhiều nghi vấn không thể giải đáp như thế, mới
khiến con người càng thêm khao khát tìm hiểu đối với chuyện xưa không tỏ tung tích. Bao nhiêu chuyện đời mịt mùng chìm vào sông bể thời gian,
chúng ta có thể vớt lại được bao nhiêu? Cũng tựa như mặt hồ Thanh Hải
thần bí này, nó trong trẻo êm đềm như thế, dù lặn xuống đáy hồ liệu có
thể lượm lặt được thứ gì? Một mảnh chéo áo tàn khuyết? Một chiếc kinh
luân rỉ sét? Một chuỗi tràng hạt mục nát? Hay một bộ hài cốt cô độc?
Thế gian biết bao việc không lời kể được, không dạng hình dung, chỉ là một
áng mây màu lững lờ, một luồng gió mát rong ruổi. Thứ chúng ta có thể
nắm bắt chẳng qua chỉ là chút ít hư ảo, nhưng vẫn cam nguyện mê muội vì
hư ảo.