
hỏi bất
ngờ nhưng sau đó lập tức hiểu ra. Lưu Tế Quân vốn chỉ nhỏ hơn Lưu Sơ khoảng chừng
hai, ba tuổi.
“Thưa vâng.” Lưu Tế Quân ngẩng đầu lên, dịu dàng đáp: “Hôm
nay là ngày đầu năm mới, Tế Quân tới bái chào cô cô, may mắn gặp đúng dịp Hoàng
hậu nương nương cũng tới.”
Chiếu theo vai vế của gia đình mình thì thực ra Lưu Tế Quân
thấp hơn Lưu Lăng hai ngôi, nhưng sau được bái Lưu Thiên làm cha nuôi nên theo
vai vế mới của Phủ Mạt Lăng hầu mà chuyển sang gọi Lưu Lăng là cô cô. Những năm
qua, Trần A Kiều và Lưu Lăng đều rất yêu thích vị Tế Quân quận chúa thanh lịch
đa tài, nghĩa khí hào hùng nhưng số phận truân chuyên trong lịch sử này nên
luôn quan tâm chăm sóc cho cô. Tuy có những tính cách do chính con người tạo
nên, nhưng Đan Dương hầu phu nhân nhiều năm sủng ái cũng không làm thay đổi được
bản tính thanh lịch đa cảm của cô nên không đáng ngại nữa.
“Hoàng hậu nương nương đã tới, Tế Quân nghĩ rằng Hoàng hậu
nương nương lâu rồi không gặp cô cô nên nhất định có nhiều chuyện muốn nói, Tế
Quân xin cáo lui trước.”
Trần A Kiều gật đầu, nhìn thân hình mảnh mai của Lưu Tế Quân
khuất dần sau tấm mành che, ngẫm nghĩ thấy như thế này cũng tốt. Nếu cưng chiều
khiến cho Lưu Tế Quân trở nên kiêu căng ngạo mạn như mình năm xưa thì Lưu Tế
Quân còn là Lưu Tế Quân nữa sao.
“Òa! A Kiều tỷ đang nghĩ gì thế?” Nàng đang lơ đãng thì Lưu
Lăng đi tới phía sau, bất chợt ú òa khiến nàng giật nảy mình rồi mới cười hỏi.
A Kiều lườm Lưu Lăng một cái, lên tiếng trách: “Đã lớn cả rồi
mà còn chơi trò này.”
“Tỷ đang suy nghĩ”, nàng cúi đầu, nói như có điều phải suy
tư: “Lịch sử đã có những thay đổi, vậy thì Lưu Tế Quân có cần phải lặp lại cuộc
đời vĩ đại nhưng tuyệt đối không có hạnh phúc của cô ấy nữa hay không?”
Dù bọn họ không dựa vào những kiến thức lịch sử của mình
nhưng cũng đã vô tình làm thay đổi dòng lịch sử. Từ đó chính bọn họ đang bị lịch
sử biến đổi đó làm cho mơ hồ, không thể nào dùng những kiến thức của mình để
suy xét thế giới này được nữa. Rốt cuộc đây là loại nghịch lý gì?
Lưu Lăng thản nhiên nói, “Con cháu có phúc của con cháu, cứ
để cho bọn chúng tự mình làm. Nhưng theo suy luận thì Tế Quân đã không còn là một
nữ cô nhi không ai bảo trợ như trong lịch sử, tôn thất có biết bao con gái, bệ
hạ chưa chắc đã chọn Tế Quân.”
“Cũng không đơn giản như vậy đâu.” Trần A Kiều cau mày nói,
“Người được tuyển chọn để gánh vác nhiệm vụ kết hôn cầu hòa mà điêu ngoa tùy hứng,
chẳng phân biệt được đúng sai, thì chẳng phải sẽ làm hỏng quan hệ ngoại giao giữa
hai nước hay sao?”
“A Kiều.” Lưu Lăng cười khanh khách, “Có phải tỷ làm hoàng hậu
quá lâu rồi nên đầu óc không còn sáng suốt nữa không vậy? Tỷ có nhớ mục đích Đại
Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là gì hay không?”
Nàng suy nghĩ một lát rồi bật cười. Đại Hán kết hôn cầu hòa
với Ô Tôn là để ước hẹn cùng nhau chống lại Hung Nô, bây giờ Hung Nô đã suy
tàn, còn cần thiết có cuộc hôn nhân này nữa sao. Nàng bị lịch sử trong đầu trói
buộc nên có suy nghĩ hồ đồ. Nàng lại chợt nảy ra một ý nghĩ, nếu lịch sử đã bị
thay đổi toàn bộ từ thời điểm bọn họ đến đây thì có phải việc nàng dùng những ấn
tượng trong lịch sử để suy xét những con người hiện thực bây giờ sẽ tạo ra sai
lầm hay không? Đây không còn là một trang lịch sử lạnh lùng nữa. Hiện tại, những
người ở bên cạnh nàng đều đang sống. Bọn họ biết khóc, biết cười, biết yêu, biết
hận, ngay cả Tư Mã Thiên cũng bắt đầu viết “Sử ký” mới rồi, việc nàng vẫn cố chấp
với lịch sử ghi trong trí nhớ liệu có còn phù hợp? Nàng có thể tin hoặc không
tin, Lưu Triệt lạnh lẽo vô tình được nàng tới bên cũng dần hiểu được tình yêu
chân thành, thật sự có lòng đồng hành với nàng đến già, cho dù năm tháng đổi
thay cũng không phai nhạt.
Lưu Lăng nhìn thấy sắc mặt nàng liên tục biến hóa bèn tò mò
hỏi, “Tỷ đang suy nghĩ gì thế?”
“Không có gì.” Nàng đáp khẽ.
Lịch sử quả nhiên phát sinh biến hóa theo cách riêng của nó.
Vào tháng Hai năm Nguyên Phong đầu tiên, nước Ô Tôn ngưỡng mộ uy thế của Đại
Hán nên cử sứ thần tới Trường An muốn đặt quan hệ hôn nhân. Ô Tôn chính là một
trong những quốc gia mạnh mẽ nhất ở vùng Tây Vực của Đại Hán. Quốc gia này sinh
sống bằng phương thức du mục ở phía bắc dãy Thiên Sơn theo một dải từ bờ sông Hồ
Nam cho tới lưu vực sông Liệt Hà, thủ đô là thành Xích Cốc nằm ở bờ sông Hồ
Nam. Phía nam Ô Tôn giáp với các thành quách của các nước láng giềng nằm ở phía
nam của dãy Thiên Sơn, phía Tây là Đại Uyển, Tây Bắc là Khang Cư, đông giáp với
Xa Sư, vùng Đông Bắc tiếp giáp với Hung Nô. Vào năm Nguyên Thú thứ hai và năm
thứ tư của cuộc chiến Mạc Nam Mạc Bắc giữa Đại Hán và Hung Nô, vì sự có mặt của
Trường Tín hầu Liễu Duệ nên sự đả kích đối với Hung Nô ác liệt vượt xa những gì
trong sách sử ghi lại. Lũng Tây, Mạc Nam, Hung Nô, đều bị tiêu diệt nên thế lực
Ô Tôn thừa dịp phát triển, trở lại đất cũ Đôn Hoàng Kỳ Liên, dần giáp giới với
Đại Hán. Từ năm Nguyên Thú thứ tư, dưới sự thống trị của Lưu Triệt và sự đồng
tâm hiệp lực của A Kiều lẫn Tang Hoằng Dương, Đại Hán mở rộng biên giới ra