
hỗ ta còn nửa túi, là do vợ ta muối… Trông ngươi mặt mũi
trắng trẻo, cũng không giống người từng nếm khổ, sao tự nhiên lại rơi vào nơi
này? Cha mẹ ngươi chết hết rồi ah?”, mặc kệ chàng có muốn hay không, người kia
cứ dúi bọc giấy tới.
“Oa!
Lạc muối? Đây là món tỷ tỷ cháu thích ăn nhất, lúc tỷ ấy buồn bực giận dỗi, lần
nào cũng ăn đầy một bát. Ngửi mùi thật thơm! Ướp với hồi và thảo quả đúng
không? Mẫu thân cháu đặc biệt thích hồi. Đa tạ đại thúc!”, thiếu niên tràn đầy
cảm kích nói một thôi một hồi, ngừng một lát, lại bẽn lẽn lắc đầu: “Không được,
cháu không ăn được lạc. Rất xin lỗi, đa tạ đại thúc”.
“Đến
lạc cũng không ăn, ngươi có bệnh à?”
“Việc
này… khụ khụ… cháu… tóm lại…”
“Chỗ ta
còn một cái bánh nướng, bánh nướng thì ngươi ăn được chứ?”
“Xin
hỏi bên trên có cho hành với vừng không?”
“Nói
thừa, không có hai thứ ấy thì còn nướng bánh thế nào nữa?”
“Thật
xin lỗi…”
“Lão
đệ, cái bệnh phiền phức này của ngươi từ đâu ra vậy? Có từ trong bụng mẹ à?”
“Hẳn là
các vị đại thúc cũng nhìn ra, trời sinh tôi nhiều khiếm khuyết.”
“À!”,
đám tiểu thương bu đầu vào bàn bạc một trận, họ đều dùng ánh mắt ngạc nhiên
nhìn chàng, thảo luận một hồi, cuối cùng nói: “Tiểu tử, ngươi hẳn phải ăn được
màn thầu chứ?”.
“… Tôi
không có tiền.”
Ba
người móc trong người ra một đồng tiền, đưa vào tay kẻ khác, tới sạp bên cạnh
mua chiếc màn thầu rồi đưa cho Tử Hân:
“Cầm
lấy đi, một cái màn thầu này ba văn tiền, xem như các đại thúc mời ngươi. Tuổi
còn nhỏ thế, cái này không ăn, cái kia cũng không ăn, làm sao mà lớn được?”
Cái màn
thầu trắng phau phau, nóng hôi hổi, cầm vào còn hơi bỏng tay, vỏ bánh mỏng căng
phồng như muốn nứt, không nhăn nheo chút nào. Thiếu niên trong lòng nóng lên,
run giọng nói: “Đa tạ các vị đại thúc!”, nói xong cúi gằm đầu xuống, bửa từng
miếng từng miếng nhỏ đưa vào miệng nhai nuốt từ tốn nhỏ nhẹ.
“Chậc
chậc, ngươi ăn màn thầu như thế à?... Thật là quá tao nhã rồi! Đây là lần đầu
tiên ta thấy có người ăn màn thầu như thế, về nhà ta cũng phải dạy con gái nhà
ta mới được. Xin hỏi bánh nướng cuốn hành tây phải ăn thế nào?”
“Cháu
chưa từng ăn”, thiếu niên khách khí đáp.
“Nếu
ngươi ăn món ấy, chắc sẽ không giống như thổi loa chứ, đúng không?”
“Cháu
nghĩ chắc không.”
Đám
tiểu thương cười phá lên.
Chiếu
màn thầu kia to gần bằng cái gối, mọi người tan hết rồi, chàng vẫn chưa ăn
xong. Dần dần, ánh đèn trên con phố dài le lói, người qua lại thưa thớt hơn.
Chàng đơn độc đứng đo một lúc, trời bỗng đổ mưa to.
Giờ
chàng mới nghĩ tới, bản thân không có một xu dính túi, tất nhiên đến một chỗ
dừng chân cũng không. Hốt hoảng kéo một người qua đường lại hỏi thăm mới biết
trên sườn núi đông trấn có một ngôi miếu hoang, trước là nơi đám ăn mày thường
ngủ.
“Chỗ đó
có thể tạm tránh gió tránh mưa, chỉ là không được sạch sẽ cho lắm. Tiểu ca, nếu
có chỗ nào khác thì chớ nên tới đó. Nghe nói… có quỷ.”
…
Ngôi
miếu đó quả nhiên rất tàn tạ.
Trên
cửa sổ giấy ngang ngang dọc dọc đều là nhớt của ốc sên. Cửa lớn khép hờ, vẹo
sang một bên. Trước cửa cỏ rậm lấp lối, mấy tảng đá vỡ lác đác khắp nơi, một
cây cổ thụ bị cây leo bám chặt tới mức cành cây vặn vẹo uốn khúc, chìa nanh giơ
vuốt. Sau lưng sơn miếu là một khoảng chân núi càng hoang vu hơn, nhấp nhô liên
miên, xa không thấy tận cùng. Sương mù trắng xóa lại như sóng biển trào dâng
mãnh liệt từ trên đỉnh tràn xuống, từ nóc sơn miếu tán ra tứ phương, ở giữa
hình thành một vòng xoáy rất lớn. Phía xa sấm giật ầm ầm, chớp rạch ngang trời,
vòng xoáy kia từ từ cuộn tròn, dưới ánh điện chớp, bốc lên một luồng ánh đỏ
đáng ngờ.
Tiếng
mưa, tiếng sấm chớp vang vọng lại tăng thêm sự yên tĩnh kỳ dị của tòa sơn miếu.
Chàng đi tới cửa, thấy nước mưa men theo hiên trước nhỏ xuống, rơi trên lớp
ngói lưu li vỡ nát. Bên trái cửa có một vại nước sứt miệng, tiếng nước nhỏ vào
đó vọng ra thứ âm thanh lạ lùng, lúc thưa lúc mau, tựa như ẩn hàm một dạng tiết
tấu dụ lòng người. Chàng lắng nghe hồi lâu, tâm tư bay bổng tận nơi nào.
Cho đến
khi hoàn hồn lại, chàng mới phát hiện bên trong cửa sổ có ánh lửa le lói.
Trong
miếu có người.
Chàng
dắt ngựa, đẩy cửa tiến vào.
Lần đầu
tiên Tử Hân gặp Trúc Ân chính tại nơi này.
Trúc Ân
là một thanh niên rất đẹp, mái tóc dài màu hung đỏ, mi dài mắt to, đôi môi tựa
như được thoa mỡ, hơi hơi đen nhưng căng mọng. Hắn mặc một chiếc áo bào màu đen
dài quét đất, viền áo màu tím đậm, đai lưng thêu kim tuyến, trên người tỏa ra
mùi hương như hương phong lan.
Tử Hân
thích Trúc Ân là bởi câu nói của hắn.
“Không
cần lo lắng nếu ngươi gặp người lạ”, Trúc Ân khẽ liếc mắt, chỉ vào tấm đệm cỏ
cạnh mình: “Nói chuyện với người lạ, thật ra chính là tự nói với bản thân
mình”.
Trên
mặt đất có một chậu sưởi nho nhỏ, mấy cây củi khô cháy tí tách. Bắc ngang giữa
chậu là một vỉ sắt be bé, dùng để nướng mấy con vật đen thui gì đó.
Đã học
y bảy năm, Tử Hân có thể giữ thái độ bình thản trước những hình thể khiến người
khác buồn nôn. Huống chi, chàng đã hơi thấm mệt, lại hơi lạnh, chàng liền bỏ
trượng ng