
làm giảng viên đại học, là một học giả giản dị, trong sạch… lý lịch của anh ấy
con đã xem qua, không có bất kỳ vết nhơ nào.”
“Gia đình cậu ta thế nào con hiểu rõ không? Cha cậu ta
là người thế nào, mẹ cậu ta là người thế nào? Con biết được bao nhiêu? Học giả,
học giả, con gả cho cậu ta không phải vì học vấn, mà là để sinh sống qua ngày.
Chủ nghĩa Marx con biết chứ? Tư liệu sản xuất quyết định thượng tầng kiến trúc.
Cậu ta có bao nhiêu tư liệu sản xuất con biết không hả? Con thông minh lắm mà,
sao giờ lại chuyển thành chủ nghĩa duy tâm mất rồi?”
Đúng là người nào người nấy giỏi nói chuyện đạo lý, mà
chỉ có hơn chứ chẳng có kém, Thái Hồng thiếu điều ngất xỉu vì tức, ngã lăn ra
giường, phớt lờ cha mình.
“Cha mẹ chỉ muốn tốt cho con, người trẻ hay hành sự
theo cảm tính, đưa ra lựa chọn không thiết thực, đến lúc xảy ra chuyện thì hối
hận không kịp nữa.” Giọng của Hà Đại Lộ thô ráp, pha chút khàn khàn.
Thấy Thái Hồng hồi lâu chẳng buồn đáp lời, ông đành
nói: “Con hãy suy nghĩ kỹ nhé, ngủ sớm đi!” Dứt lời, ông đi ra phòng khách.
Vừa mở cửa, đột nhiên Thái Hồng cất tiếng hỏi: “Cha,
năm xưa mẹ và cha kết hôn là hành sự theo cảm tính hay là lựa chọn thiết thực?
Bao nhiêu năm qua, hai người hạnh phúc không?”
Không có câu trả lời, đáp lại là một tiếng “rầm” đinh
tai, cánh cửa đóng sập lại.
Trong thoáng chốc, đêm đen ngập tràn nỗi lạnh lẽo buốt
giá.
Thái Hồng biết mình đã bắn một mũi tên làm tổn thương
cha mình. Cô vẫn nhớ rõ, lúc còn nhỏ, cha mẹ cô thường xuyên gây gổ, cãi cọ,
sau trận cãi vã là chiến tranh lạnh kéo dài đến mấy tuần, phải nhờ Thái Hồng
làm bồ câu đưa thư, chuyển giấy nhắn tin để nói chuyện với nhau.
Một ngày nọ, khi cô mười tuổi, Thái Hồng không chịu
nổi nữa, bèn viết một bức thư cho cha mẹ, ghi rằng thà cô chết sớm cũng không
muốn trông thấy hai người cãi cọ. Cô đặt bức thư vào trong một phong bì ngũ
sắc, nhét vào ví tiền đặt trong đống quần áo sắp mang đi giặt. Cô biết Minh
Châu có thói quen kiếm tra tất cả các túi áo quần trước khi giặt quần áo.
Từ sau hôm đó, những trận cãi vã biến mất, chiến tranh
lạnh kết thúc, thay vào đó là cảnh êm ấm bề ngoài. Cha mẹ vẫn mâu thuẫn với
nhau, chẳng qua là từ cãi cọ công khai chuyển sang âm thầm, giấu giếm mà thôi.
Hơn ai hết, khi lỡ bước sai đường, những người già luôn biết cái gì gọi là đâm
lao phải theo lao, chỉ biết bất lực thở dài chịu đựng.
Quý Hoàng đẩy chiếc Merida từ bãi đỗ xe ra, hình như
anh là người yêu thích xe đạp địa hình.
Thái Hồng cũng rất thích đạp xe, giống như người cha
làm tài xế của mình, Thái Hồng rất thích loay hoay với mấy thứ máy móc. Nhưng
từ khi chiếc xe mới toanh thứ ba của cô bị mất trộm trong khuôn viên trường, cô
đã từ bỏ đạp xe, chuyển sang ngồi xe bus đi làm.
“Anh thích ăn ở căng tin bên nào? Khu Đông? Khu Bắc?
Khu Tây? Hay khu Sướng Xuân Viên?” Thái Hồng hỏi.
“Có gì khác nhau sao?”
“Đương nhiên là có! Món Tứ Xuyên và đồ xào ở khu Đông
được lắm. Canh là lẩu ở khu Bắc thì ngon. Khu Tây nổi tiếng về bánh và hải sản.
Còn khi Sướng Xuân Viên hả, chủ yếu là món phương Bắc. Thầy Quý là người ở
đâu?”
“Tôi là người phương Bắc. Nhưng tôi thích món Tứ
Xuyên.”
Thái Hồng không kiềm được liếc nhìn anh một cái. Người
phương Bắc ư? Không giống lắm. Nếu vẻ mặt không lầm lì, ánh mắt không sắc lẹm,
chắc anh cũng được coi là một chàng trai khôi ngô. Nhưng dáng người anh không
mấy cao, chưa đến một mét tám, người gầy khiến chân và cánh tay trông rất dài.
Mấy sư huynh người phương Bắc của Thái Hồng ai nấy đều cao to, vạm vỡ, vai u
thịt bắp, thế nên cô cảm thấy ngoại hình của Quý Hoàng cũng y như tên của anh
vậy, thanh mảnh tựa trúc, trầm lắng thanh âm cổ kính và chan chứa hơi thở của
vùng sông nước Giang Nam. Thậm chí cô còn nhớ đến một bài thơ: “Một
mình trong khóm trúc, gảy đàn rồi hát chơi, rừng sâu kẻ không biết, trăng sáng
chiếu lên người…”
“Thế thì đến căng tin bên khu Đông ăn nhé! Khu Đông
thì tôi rành lắm, nó gần ký túc tôi ở lúc trước mà, thời gian thi cao học ngày
nào tôi cũng ra đó ăn, lại còn ăn nhiều, tính ra giá tiền cũng ngang với mấy
món ăn thập cẩm. Tôi đề nghị anh thường xuyên đến đó ăn”. Vừa nói, Thái Hồng
vừa sải bước đi trước dẫn đường.
Quý Hoàng bảo: “Tôi cảm thấy mấy món thập cẩm ở đây
cũng khá ngon đấy chứ? Ngon hơn so với trường tôi trước kia.”
Thái Hồng không nén được muốn hỏi anh học trường nào,
nhưng lại nghĩ chuyện này sớm muộn rồi cũng biết, nếu cứ hỏi, không khéo lại bị
người ta hiểu nhầm mình có ý gì với hắn. Hơn nữa, Đại học F là trường đại học
trọng điểm của quốc gia, được phân đến đây sau khi tốt nghiệp chắc chắn không
phải hạng thường.
Vừa đi vừa chuyện trò, hai người đã đến căng tin. Bốn
giờ chiều, chưa đến giờ cơm tối, quầy bán đồ xào ở tầng hai cũng không đông
khách lắm.
Họ ngồi xuống chiếc bàn ngay cạnh cửa sổ, cô nhân viên
phục vụ mang trà lên, đưa tờ thực đơn cho hai người.
Thái Hồng thích ăn ngon, trông thấy các món ăn ngon
mắt, tâm trạng vui tươi hơn hẳn, cô cứ tủm tỉm cười: “Thầy Quý, thầy thích ăn
gì? Cứ tự nhiên