
đây? Lòng buồn rười rượi, tôi lấy
khăn dụi mắt.
- Ông khóc vì bị lạc đường à?
Cô bé mặc áo tím, có đôi mắt đen láy như hai hột nhãn. Nhìn lâu đôi mắt ấy dễ
trợt chân té ngã, tôi ngoảnh mặt đi và thở dài.
- Ừ…
- Ông định đi đâu?
- Ði tìm việc làm.
- Vậy ông đến đây không đúng lúc rồi. Ðang mùa Ðông ghe chài ít đi biển. Ðâu
có việc gì làm.
- Tôi đến đây dạy học.
- Tướng ông mà là thầy giáo.
Ðể cô bé khỏi nghi ngờ, tôi móc túi đưa cho em xem tờ giấy bổ nhiệm. Cô bé
lắc đầu.
- Chắc có sự lầm lẫn gì đây. Nhưng thôi, để em dắt ông đến trường cho người
ta quyết định.
Tôi cầm túi xách đựng quần áo và sách vở bước theo cô bé. Vừa đi, tôi vừa hỏi
em tên gì, ở đâu, làm gì? Cô bé mím môi cười.
- Nơi đây nhỏ bé. Trước sau gì ông cũng biết mọi chuyện. Ðến trường rồi. Em
chào ông.
Tôi chưa kịp nói cám ơn, cô bé đã bước đi thoăn thoắt. Sợ trễ giờ làm việc
trường đóng cửa, tôi không dám đuổi theo em. Khi tôi vào văn phòng, ông hiệu
trưởng đang chuẩn bị ra về. Coi giấy tờ của tôi xong, ông niềm nở dắt tôi đi một
vòng giới thiệu trường. Ðể chuẩn bị cho niên học mới, các lớp học đều được quét
vôi vàng sáng sủa. Ở góc sân trường, trên một cây phượng cổ thụ lá xanh um, có
treo một cái kẻng lớn bằng niềng xe hơi.
- Thầy về thật đúng lúc. Tôi đang chia giờ dạy. Tôi sẽ sắp thầy dạy lớp mười
một. Thứ hai tuần sau trường khai giảng, Thầy còn một tuần nghỉ ngơi. Ra đây
thầy trọ ở đâu?
Tôi nói:
- Tôi chẳng quen biết ai ở đây và nhờ ông hiệu trưởng giới thiệu một chỗ
trọ.
Ông nhíu mày suy nghĩ một lúc, rồi nói :
- Tôi giới thiệu thầy tới ở tạm chỗ này, rồi tính sau.
Ông hiệu trưởng lái xe honda chạy dọc theo con đường chính dẫn vào trung tâm
thị trấn. Hai bên đường là những ngôi nhà cũ kỹ, mái ngói thấp, tường vôi loang
lỗ. Trừ các cửa hàng tạp hóa, các ngôi nhà khác đều đóng kín cửa tránh những con
gió thường thổi bụi ở lòng đường bay mù. Trong không khí sực nức mùi nước mắm,
làm bụng tôi đói cồn cào.
Ðến một con đường đầy cát, tôi phải phụ ông hiệu trưởng đẩy xe vào một xóm
trồng đầy mận. Những trái mận chín đỏ, nhìn chỉ muốn hái trộm. Tôi hỏi :
- Xóm này tên xóm Mận, phải không ông hiệu?
- Không, tên nó là xóm Rùng, vì người ở đây sống bằng nghề lưới rùng.
Không rành nghề đi biển, nghe cái tên tự nhiên tôi rùng mình. Ông hiệu trưởng
dừng xe trước một ngôi nhà mới xây, mái lợp ngói đỏ tươi, phía trước có hàng rào
là những cây xương rồng cao ngang ngực. Ông gọi “Chú Bảy ơi, chú Bảy.” Một người
đàn ông tóc muối tiêu, ngực vạm vỡ, mặc quần cụt, bước ra mở cổng. Ông mời chúng
tôi vào nhà, uống nước trà.
Ông hiệu trưởng giới thiệu chú Bảy là bà con với ông. Rồi ông trình bày hoàn
cảnh của tôi và nhờ chú Bảy cho tôi ở trọ. Chú Bảy gãi râu.
- Ông giáo cứ ở tạm đây. Mai sau tìm được chỗ ưng ý thời đi. Sẵn tôi nhờ ông
giáo kèm hộ con nhỏ ở nhà. Tánh nó ngang quá. Con gái mà cứ đòi đi biển chứ
không chịu học chữ.
Tôi cám ơn lòng tốt của chú Bảy và hứa sẽ hết lòng dạy kèm cô nhỏ. Ông hiệu
trưởng đứng dậy chào ra về. Chú Bảy chỉ tấm phản nơi tôi ngủ và nói ra giếng ở
phía sau tắm rửa.
Bước ra cửa sau, tôi nghe rõ tiếng sóng biển ầm ì và trước mặt cả một vòm mận
đầy trái chín. Tôi không ngăn được, hái một trái bỏ vào miệng nhai. Chúa ơi! Từ
nhỏ đến bây giờ tôi mới được ăn một trái mận ngọt như vậy. Tôi hái trái thứ hai
bỏ vào miệng. Chúa ơi! Từ bây giờ cho đến lúc chết, chẳng nơi đâu tôi được ăn
trái mận ngon như ở đây.
- A… á…á…
Tôi hét lên kinh hoàng và nhảy thụt lui ba bước, khi thấy những con quái vật
từ trên trời rơi xuống bò lổn nhổn quanh chân mình. Cô bé tôi gặp hồi chiều đang
đứng ở ngưỡng cửa sau, ôm bụng cười.
- Em thử xem ông có can đảm không.
Tôi cố gắng trấn tĩnh, nói châm chọc lại.
- Tôi nhảy thụt lùi vì sợ đạp chết những con vật “thân yêu” của em.
- Ông biết chúng là con gì không?
Tôi nhìn kỹ những con vật đang bò trên cát. Chúng giống con tắc kè, nhưng to
hơn nhiều và có những đốm xanh đỏ trên lưng, trông phát ớn. Tôi đã thấy con kỳ
đà ở Sở thú Sài Gòn, nên mạnh dạn đáp.
- Chúng là bà con kỳ đà, tên chúng là con “kỳ quặc”.
Cô bé ôm bụng cười phát ho rồi lắc đầu.
- Thật may, ông không phải là thầy của em. Thôi ông giúp em bắt chúng, để em
làm thịt ăn cơm tối.
Tôi hơi hơi run, không biết cô bé nói thật hay đùa. Bắt chúng, lỡ chúng cắn
chết, tôi phải bỏ thây nơi đất khách quê người thì thiên hạ ai là người sẽ khóc
thương tôi? May thay, chú bảy đã ra đúng lúc. Ông nói :
- Ðể ba bắt dông làm thịt. Con lo nấu nướng. Tối rồi.
Bữa cơm dọn lên chiếc bàn tròn, dưới ánh sáng ngọn đèn bình ắc qui. Chỉ có
chú Bảy, tôi và cô bé. Sau này, tôi mới biết vợ chú Bảy chết đã lâu. Người con
trai lớn của chú đi lính “ông Ðịa” đóng ở quận, đã có gia đình riêng.
- Ðang mùa dông, – Chú Bảy nói – tôm cá không có. Ông giáo ăn đỡ mấy con
dông.
Nhìn mâm cơm thấy có ba dĩa : gỏi dông, dông xào lăn, dông nướng, mùi thơm
bốc lên làm tôi ứa nước miếng. Nhưng nhớ lại hình ảnh mấy con dông khi còn sống,
tôi đâm chột dạ, không dám gắp. Tôi sợ ăn chúng xong, đất sẽ “ăn tôi”.
Hình