
h nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay như
đưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng trên
nóc nhà nhiều nghe đến phát sợ.
Không
về đến quán kịp nữa rồi. Tôi vừa thở vừa khom người chạy vào cái miếu cô hồn
nằm xê xế phía dưới chợ, chỗ cây đa cổ thụ cành lá rậm xùm xòa đang quằn lên
vật xuống như sóng. Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay cuồng trong
cơn gió mãnh hệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát ra những tiếng
nổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu. Tôi thu người lại như một con
trút, ngồi sát vào chân bệ thờ. Tường miếu xây bằng đá tổ ong, mái lợp ngói
trát vữa rất chắc nhưng tôi bắt đầu cảm thấy không an toàn chút nào. Chà, giữa
lúc trời sét mà lại dại dột tìm chỗ trú ẩn ngay dưới một gốc cây to Tôi vốn
ghét những chuyện hoang đường quái đản, không bao giờ tin rằng có ma qủy, nhưng
không hiểu sao trong giờ phút này bỗng thấy trong người rờn rợn. Pho tượng
"ông Tiêu" (Thần quản lý ma quỷ) mặt vằn vện, đầu mọc ba cái sừng,
chiếc lưỡi thè dài quá rốn, đứng ngay trên đầu tôi. Mỗi lần trời chớp, tôi đều
ngửa mặt nhìn lên pho tượng với một nỗi lo sợ và tò mò không cưỡng được.
Tôi
dặng hắng một tiếng rõ to, phủi đít đứng dậy bước ra ngồi ngay ở cửa miếu. Một
vài hạt mưa bay chéo hắt vào mặt tôi lạnh buốt như nước đá. Bầy kiến đất bò ra
bò vào cạnh chân tôi chúng quơ râu trò chuyện với nhau một cách bình thản, lại
còn rủ nhau lũ lượt bò ra ngoài thềm miếu nữa chứ không cuống cuồng chạy rúc
vào tôi như những khi trời sắp mưa to.
Cái
túi da beo đựng vật gì hơi nặng thì phải. Hình như một con dao, bởi cái sừng ló
ra ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. "Thử mở ra coi cái gì trong này?"
Tôi vừa nghĩ thế, bỗng nghe từ trong lòng mình văng vẳng có tiếng bảo:
"Đừng động chạm đến của cải của người ta. Tò mò vậy không tốt đâu!"
Tôi ngồi im một lúc, bàn tay ngứa ngáy không chịu yên lại nắn nắn cái túi. Bây
giờ tôi lại nghe tiếng văng vẳng ban nãy cùng phụ họa theo ý nghĩ của tôi:
"Xem chút thôi mà! Vả chăng, mình có ý định lấy gì trong túi này
đâu!" Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áo
vét-tông, tự nãy giờ còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.
A! Cái dao găm!
Tôi
chợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc da bao láng bóng vì đẫm mồ
hôi người lâu năm ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lần
trời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng dỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cán
bằng sừng gì như sừng nai. "Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này?
đằng nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!"
Sự
tò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ,
mươi hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy đầu cỡ bàn tay. Một cục đá và
một miếng thép dèn dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc.
Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng, mùi hăng hắc, đưa lên mũi ngửi thấy buồn
nôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái dao
găm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột.
Cầm
chặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hắn lên; dường như
sức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngón
tay. Trời chớp nhoáng nhoáng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quảy phắt
lại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu. Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng trên
bệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhe
ra như cười.
Một
lúc sau, gió dụi dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừa
gào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hót
líu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trong
suốt và lung linh dương như có thể sờ được.
Tôi
trở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyền
con của ông cụ giá bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếc
thuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quang
của ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sực
nhớ rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp buộc trở lại quán dể lo bữa cơm chiều.
Từ ngoài góc sân sau, tôi đã thấy trong hơi khói
bếp bay tỏa ra xa mùi cháy của cá kho khô ướp nước màu dừa (nước hàng làm bằng
nước dừa cô đặc), rưới mỡ béo ngậy và có rắc hạt tiêu thơm phức.
-
Ông con ơi? Cơm đã dọn sẵn rồi đấy? - dì Tư Béo mát mẻ nói vọng ra.
Đáng
lẽ phải đi nhanh vào và sẵn sàng chịu đựng những câu quát mắng của bà chủ đôi
khi cũng bất thần nổi nóng với mình, thì tôi lại bước từng bước một cách hết sức
chậm chạp.
Mùi
cá kho khô thơm lừng mà ban nãy nghe thấy đã thèm rõ rãi khiến tôi cảm thấy
bụng đói cồn cào, bây giờ bỗng bay đâu mất. Tôi không sợ những lời quát mắng.
Thậm
chí những câu chửi rủa tục tằn cũng không làm tôi bực túc hay run sợ nữa. Bởi
vì, đối với một thằng bé lưu lạc một thân một mình như tôi, thì b