
a buồn vui tan hợp. Nhờ độ hoá cho
loài sinh vật nào đó trở nên lương thiện, mới từ bỏ vọng tưởng và chấp
trước, có được sự bình thản và an nhàn như ngày nay.
Làm một đoá
sen xanh trong nước, ở yên một góc trước Phật, mỗi ngày nghe tiếng gió
vi vu khe khẽ thổi qua nơi góc thềm, nhìn ngắm bóng trăng mơ hồ thưa
thớt. Cho dù ngày tháng bên ngoài lan can trôi qua chậm chạp bao lâu,
hoặc là đi nhanh bao nhiêu, sen vẫn luôn như thế. Những người từ hồng
trần đến trước Phật gỡ mọi hành trang thế tục xuống, trở về với bản
nguyên, cùng một đoá sen bắt đầu cuộc đối thoại bằng tâm hồn, vừa kéo
dài vừa thanh tịnh.
Sen dùng từ bi để thanh tỉnh tự chủ, nghe
quen tiếng trống chiều chuông sớm, đọc kỹ kinh kệ thi văn, sớm đã tịnh
hoá thành vật thuần khiết, có linh tính. Sen trồng trong “nước Nhược ba
ngàn[20'>”, một đời thanh bạch, khiến sinh linh ly tán trong nhân gian
không còn âm thầm đau thương nữa. Cây sen xanh đó cũng không biết mình
đã tu luyện bao nhiêu năm trước Phật, ngâm sâu trong nước, đâm thẳng lên cao, từ đây luân hồi cũng thành tươi đẹp.
[20'> Nước Nhược ba
ngàn: Thời cổ có rất nhiều dòng sông nước nông mà chảy xiết, không thể
dùng thuyền mà phải dùng bè để vượt qua, người cổ cho rằng vì nước sông
quá yếu nên không chở nổi thuyền, vì thế gọi là Nhược Thuỷ. Dần dần,
trong văn học cổ dùng Nhược Thuỷ để chỉ những dòng nước xiết mà xa xôi,
trong “Hồng lâu mộng” lại dùng để ví với tình yêu sâu tựa biển.
Khi một người đối diện với trần thế bận rộn không cách nào thoát ra được,
so với thoả hiệp để mình ngã sâu vào bể nhuộm, chẳng thà thấu hiểu mà
buông tay. Giữa bốn mùa luân chuyển, ngắm nhìn mây phiêu du bên trời,
trăng treo trên ngọn cây, một cành mai xanh như có như không ngả vào sân vắng. nếu như phàm trần thực sự có biết bao điều không nỡ từ bỏ như
thế, có thể lựa chọn ở lại, chỉ cần không khăng khăng chuyện được mất.
Từ đó về sau, mấy quyển kinh thư, một ly trà trong, tháng năm bình dị,
đạm bạc, giản đơn tĩnh lặng qua ngày, không cầu gì khác.
Bắt đầu
từ lúc nào, chúng sinh ngưỡng mộ sen xanh trước Phật, tuy ngâm mình giữa bùn, mà cách xa khói lửa, thanh khiết như băng như ngọc. Có lẽ trong
những ngày tháng núi cao trăng khuất đó, sen cũng sẽ cô đơn, nhưng trước sau vẫn giữ mình tỉnh táo tự chủ, không kinh sợ, không phiền não. Khi
cô đơn thì tựa vào lan can, ngắm chim én bay về phương Nam tìm tổ ẩm,
hoặc quỳ trên nệm bồ đoàn, nghe Phật Đà giảng chuyện bồ đề năm xưa.
Bờ bên kia lửa đèn sáng rực, bờ bên này gió mát trăng thanh. Xưa nay hồng
trần và cõi Phật đều chỉ cách nhau một bước chân, đành trông vào Phật
duyên và tạo hoá của chúng sinh. Người giác ngộ sớm đã vượt sông lên bờ, dừng lại bên hoa sen mà sống. Còn kẻ u mê vẫn trôi nổi giữa dòng, không nơi neo đậu. Có người nói, đợi đến khi đoá hoa cuối cùng rơi rụng, ly
trà cuối cùng lạnh ngắt, mối tình cuối cùng đứt đoạn, là siêu thoát.
Nhưng sự chờ đợi ấy khiến tóc xanh biến thành tơ trắng. Thời gian trôi
mãi trôi mãi, Phật duyên kiếp này cũng không trở lại.
Tuy nói
siêu thoát càng sớm càng tốt nhưng vạn sự trong nhân gian rốt cuộc vẫn
coi trọng duyên pháp. Không phải vào trong đền miếu là có thể tâm tĩnh
vô trần, dứt bỏ lo âu. Cũng không phải rơi vào lưới trần là vẩn đục
nhiễm tục, không thể giải thoát. Chúng sinh bình đẳng, hoa sen trước
Phật, hoa sen của hồng trần, không hề phân chia cao quý hay thấp hèn. Ai giác ngộ trước người đó có thể ra khỏi bờ bến nhân gian trước, đến cửa
Niết Bàn, từ đó về sau không đến không đi, không buồn không vui.
“Kinh Nghiêm Hoa” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, nhưng đều vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng ngộ.” Cùng là sen xanh, cùng nghe Phật Tổ giảng pháp, có đoá chỉ nghe một lần là
giác ngộ, có đoá lại nghe ngàn vạn lần mà vẫn không thấu hiểu. Vì không
chịu được sự tịch liêu lẻ bóng, hay vì tham luyến khói lửa phàm trần,
mọi loại tiền duyên đều tự mình gánh vác. Thiền là gương sáng, có thể
soi thấu ảo tượng mơ hồ của nhân gian, khiến cho cái gì nên ở lại thì ở
lại, cái gì nên đi thì sẽ đi.
Siêu thoát, không cần nhét thêm
hành lý, mà là bỏ tay nải xuống, gột tẩy tâm linh, bỏ qua tất cả. Siêu
thoát là bước ra khỏi hoa rơi, không hỏi tới chuyện hồng trần, làm người đứng ngoài thế tục. Giác ngộ triệt để là không còn mê hoặc vì thế thái, bất cứ lúc nào cũng bộc lộ bản ngã chân thực. Cảnh giới của Thiền, quý
giá nhất không gì hơn tự nhiên thấu tỏ. Cho dù bất đắc dĩ không thể siêu thoát, rơi vào giữa phố chợ cũng sẽ đứng ngoài cuộc, Thiền tâm như nước lặng.
Tâm như sen nở, từng lá từng hoa đều là Thiền. Mọi chúng
sinh yêu hoa sen chính vì sự tự tại thản nhiên một nửa nhập trần, một
nửa thoát tục của nó. Hoa sen chưa bao giờ cho chúng sinh bất cứ lời hứa nào, không định bất cứ ước hẹn nào, bởi vì tất cả chờ đợi hư vô đều là
vô tội. Có lẽ bởi vì hoa sen có Phật tính và sự thanh khiết đặc biệt,
khiến chúng sinh vừa nhìn đã say mê, cho nên họ cầu nguyện, đời này có
thể làm một đoá sen xanh trước Phật, cô độc