
đâu, vốn đã không cần câu trả lời nữa.
“Kinh Viên Giác[24'>” viết: “Nhất thiết chúng sinh chủng chủng huyễn hoá, giai sinh Như Lai viên giác diệu tâm, do như không hoa, tòng không nhi hữu.
Huyễn hoá tuy diệt, không tính bất bại, chúng sinh huyễn tâm, hoàn y
huyễn diệt, chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động,” (Tạm dịch: Tất cả
chúng sinh và mọi vật huyễn hoá, đều sinh từ Viên giác diệu tâm Như Lai, ví như hoa ảo trong hư không, từ hư không mà có. Hoa ảo tuy diệt mà
tính hư không không hoại, tâm ảo của chúng sinh lại y nơi pháp ảo mà
diệt, pháp ảo tâm ảo diệt hết thì tính giác bất động) Đời người như ảo
mộng, một người lướt qua, một người quay đầu, liền thành vật nay còn đó
người đã khác xưa. Đối với quá khứ, chớ nên ngoái nhìn lưu luyến, mà hãy để nó sạch trơn như gió mát, thong thả như mây trôi.
[24'> “Kinh
Viên Giác”, tên đầy đủ là “Đại Phương Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa
Kinh”, còn gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác kinh”, “Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa kinh”, “Viên Giác Liễu Nghĩa kinh”, là một trong những kinh
điển Phật giáo Đại Thừa.
Người tu hành, hết thảy pháp, đều là
Phật pháp; hết thảy tâm, đều là Thiền tâm. Dùng đôi mắt Bát Nhã nhìn thế gian Ta Bà, mỗi một hạt bụi đều có định lực, mỗi một cọng cỏ đều là
thuốc lành, mỗi một tấc đất đều nở rộ hoa sen. Nhân gian là đạo tràng tu hành hoàn mỹ nhất, trong khói lửa vẩn đục có thể tìm thấy một chiếc
gương trong sáng, thấy chân tính mà thành Phật[25'>. Từ đó trăng thanh
gió mát, vui vẻ bình an, trời nước một màu, sơn hà tự tại.
[25'>
Nguyên văn “kiến tính thành Phật”, trích trong bài kệ 4 câu, tương
truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, vị tổ đầu tiên của dòng thiền Trung Quốc.
Bài kệ này là kim chỉ nam của Thiền tông Đại thừa: Bất lập văn tự/ Giáo
ngoại biệt truyền/ Trực chỉ chân tâm/ Kiến tính thành Phật (dịch nghĩa:
Không lập chữ nghĩa/ Truyền giáo pháp ngoài kinh điển/ Chỉ thẳng tâm
thật/ Thấy tính thành Phật.)
Phật du hành giữa nhân gian, chúng
sinh đều có cơ duyên gặp Phật. Có thể tại một ngõ mưa, đá xanh nào đó,
một bến đò ly biệt nào đó, hoặc là một con đường núi lá rụng đầy nào đó. Lại hoặc là cùng uống một ấm trà, cùng hái một nhành hoa, ngồi cùng một tấm nệm. Những nơi Phật đi qua đều là quốc thổ thanh tịnh. Những nơi
Phật đã ban phát tình yêu, đều là thế giới bồ đề.
Đối với Thiền
giả, tất cả nhân duyên, tất cả vui buồn, đều có thể được hong khô dưới
ánh nắng mặt trời. Một bậc Thiền giả, cái người đó truy cầu không phải
là nội tâm sâu sắc thế nào, mà là làm thế nào để tâm trong như nước. Dù
bước đi trên rừng đao núi kiếm, vẫn có thể ung dung kiên định; lạc giữa
biển khói mây mù, vẫn có thể sáng lòng thấy được chân tính.
Hoa
nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là
duyên tàn. Ba ngàn thế giới, mỗi một ngày đều sẽ có lướt qua, mỗi một
ngày đều sẽ có trùng phùng. Tu Thiền không cần dốc lòng, rất nhiều người vì một mối tình duyên, cam tâm quay ngược lại con đường luân hồi, cho
dù phải trải qua đợi chờ hàng ngàn năm, đổi lại chỉ được một cái quay
đầu ngắn ngủi, cũng không oán không hận. Nhưng có lẽ chính trong khoảnh
khắc quay đầu đó, trong thời gian năm tháng, bỗng nhiên đốn ngộ. Bất cứ
chấp ngã nào cũng đều là phiền não, duy chỉ có từ bỏ, mới có thể tự tại.
Duyên phận giữa người và người, tuy có thuyết định mệnh, nhưng trong cuộc
đời, có rất nhiều sự an bài hoàn toàn là ngoài ý muốn, chúng ta không
cần vì một vài điều ngoài ý muốn mà cố giữ gió trăng. Tu Thiền cũng vậy, không cần dốc lòng, mà cốt quý ở tự nhiên. Vạn vật đều có Phật tính,
tức là giữa một ngày rất đỗi bình thường, bạn làm thế nào để tìm được
một phong cảnh thuộc về bản thân mình.
Những quá khứ đã trôi đi
thật xa đó không phải là để quay đầu luyến tiếc, cũng không phải là để
quên lãng, chỉ coi nó là sự tồn tại đơn giản, coi nó là dòng suối cần
phải băng qua khi muốn lên bờ. Không để tâm ai đã từng tới, ai đã từng
đi, lướt qua nhau tuy chỉ khoảnh khắc, dừng lại cũng chẳng thể một đời.
Thế sự mênh mang, giấc mộng năm xưa đã sớm hoá thành vô số hoa rơi.
Chúng ta không cần thiết đi nhặt lại ngày hôm qua đã mất.
Thuyền
buông sông hồ, gặp sóng cả hồng trần, không cần sợ hãi. Chỉ cần không bị tình cảm và danh lợi trói buộc, bất cứ lúc nào cũng có thể rẽ nước mà
xuôi, cưỡi gió mà chạy. Hồng trần như chuyến đi ngược chiều, chúng ta
đều là người đi đường, là khách vãng lai. Từ điểm xuất phát của sinh
mệnh, dọc đường lặn lội, nếm hết phong trần, trong hành lý mang trên vai đều là quá khứ nhiều năm. Mà đường về, cuối cùng nằm ở đâu? Người trong thế tục cho rằng bỏ hành lý trên vai xuống là tìm được về cố hương của
đời mình. Nhưng người tu hành, chỉ cần tâm như tịnh thuỷ, là có thể ngộ
đạo.
Chúng sinh quay về, cho dù gặp phải kiếp số ra sao, bất cứ
cuộc du hành nhân gian nào đều sẽ đột ngột dừng lại. Ngày ấy, thế sự như nước rút đá bày, sóng xô phẳng lặng. Người đời đi khắp vạn nước ngàn
non, những gió sớm ngày tan, hoa thắm liễu xanh đó, trở thành phong cảnh dù có quay người cũng kh