
h linh, duyên sâu hay duyên mỏng, đều là ngộ tính của mỗi
người.
Hồng trần ở bờ bên này, Phật giới ở bờ bên kia, giữa bờ
bên này và bờ bên kia, chỉ cách nhau năm tháng như khói mây. Hai bên
nhìn nhau, cùng trân trọng nhau, nhưng vĩnh viễn không thể bên cạnh
nhau. Mà khoảng cách trở thành vẻ đẹp thiên cổ, khiến cho vô số thế nhân tới Nga My cũng chỉ vì sự từ bi của đài sen này. Đến đến đi đi, giống
như Phật quang cảnh ảo, không cần chờ đợi gặp gỡ, cũng không cần sợ hãi
ly biệt. Quay đầu nhìn lại đỉnh núi mênh mông, ánh Phật quang sáng lòa
trên Kim Đỉnh đó, vẫn còn vì ai chiếu rọi một quãng thời gian như nước?
[Thánh đăng'>
Truy tìm Thánh đăng (đèn Thánh) cũng như trong đêm tối tìm một con đom đóm,
như ẩn như hiện, mù mịt khó nắm bắt. Thánh đăng và Phật quang tựa như sự thay đổi giữa ban ngày và ban đêm, nó mang theo sự thần thánh và thanh
tịnh của Phật khiến cho khách qua đường chốn hồng trần phải truy tìm,
nhưng nó lại chưa từng phụ bạc ai. Trong đêm đen gió lộng, xả thân dưới
vách đá của Kim Đỉnh, bỗng thấy ánh sáng như đom đóm, từ vài đốm dần dần biến thành vô số, bồng bềnh giữa sơn cốc thâm u tĩnh mịch, lập lòe bất
định. Đó chính là Thánh đăng, nó trôi nổi giữa những vách đá, uốn lượn
không để lại bóng dáng, từng đốm sáng huỳnh quang mang lại cho người gặp cảm giác được tái sinh trong khốn cùng. Nó không giống như trăng sáng
sao sớm, lửng lơ trên bầu trời thênh thang, cho dù bạn ở bất cứ đâu đều
có thể nhìn thấy. Sự kỳ diệu của Thánh đăng nằm ở chỗ, nó như một giai
nhân tuyệt sắc, thoắt ẩn thoắt hiện trong u cốc, duy chỉ có trên núi cao cheo leo hiểm trở, mới có thể tìm thấy dấu tiên, gặp được giai nhân.
Kim Đỉnh trên Nga My là nơi ngắm Thánh đăng đẹp nhất, từng đốm từng đốm lửa như sao băng vụt qua, xưa đi nay đến, lưu giữ biết bao linh hồn khi mờ
khi tỏ của biết bao người xem. Chính vòng sáng của Thánh đăng, đã chiếu
sáng sự u ám của bốn bề, khiến cho người đến thông suốt, người đi sáng
tỏ; khiến người tụ lại trấn tĩnh, người ly tán ung dung. Có những người
rong chơi giữa phong cảnh ban ngày, có những người say sưa giữa mộng
cảnh ban đêm, cho dù là trong sáng hay là sâu sắc, đều có lý do để đam
mê. Khi người tìm kiếm vội vã đi xa, dải thánh đăng sáng lập lòe ấy chờ
đợi bình minh là vì ai?
Cảnh thứ hai: Chùa Vạn Niên
Cảnh
ảo mây khói giăng tỏa được vén ra, một vùng trong sáng, cao xa của mùa
thu nước trong leo lẻo gió mát hiu hiu hiện lên trong tầm mắt. Trước
trời cao mây thu, nước trắn bên hồ, chùa Vạn Niên đã trải qua nghìn năm, không màng nhân quả, chẳng can số mệnh. Đi qua ngày hôm qua đầy ắp
tiếng suối chảy róc rách, theo từng câu chuyện cũ lá phong nhuộm đỏ,
đứng trước cánh cửa trang nghiêm của ngôi chùa cổ, ngắm màn khói lửa
thời Tấn, nghe Phạn âm triều Tống, tìm bóng dáng thời Minh.
Bước
vào tòa minh điện xây bằng gạch không có cột kèo, quan sát tòa kiến trúc thần kỳ này, những lớp hoa văn trang trí trang nhã trên tường làm tôn
lên vẻ tĩnh mịch, trang nghiêm của Phật điện. Không cần tìm kiếm, đã
thấy ngay tượng Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng đang nghiêm trang nhìn
bạn, trên đầu ngài đội mũ vàng Ngũ Phật, tay cầm như ý, tư thế trọn vẹn, thần thái sinh động. Con voi trắng sáu ngà mà ngài cưỡi khí thế hùng
hồn, gánh vác sứ mệnh, đứng trên đài sen, đã trở thành tượng trưng cho
Phổ Hiền Bồ Tát. Họ (tượng bồ tát và voi trắng) bảo vệ cho lầu gác điện
đài của chùa Vạn Niên, bảo vệ cho cảnh non xanh nước biếc của Nga My, có lẽ họ dễ dàng bị người đời quên lãng, nhưng cũng dễ dàng được người đời nhớ ra.
Mây trắng nhẹ bay, nước thu trong vắt, nơi đây từng có
tăng nhân đời Đường gẩy đàn cho thi tiên Lý Bạch nghe, Lý Bạch cũng từng làm bài thơ “Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm” (Nghe nhà sư Tuấn của đất
Thục gẩy đàn), thơ rằng: “Thục tăng bão lục y, tứ hạ Nga My phong. Vị
ngã nhất huy thủ, như thính vạn hác tùng. Khách tâm tẩy lưu thủy, dư
hướng nhập sương chung. Bất giác bích hải mộ, thu vân ám kỷ trùng.”
(Trần Trọng Kim dịch thơ: Nhà sư ôm một cây đàn, từ Nga My xuống đi sang nơi này. Vì ta một bận vẫy tay, dường như muôn suối vang đầy tiếng
thông. Nước tôi rửa sạch cõi lòng, dư âm hòa lặn tiếng chuông sương mờ.
Núi xanh chiều xuống không ngờ, tối tăm bốn phía mây thu trập trùng)
Nghe nói trong đầm Bạch Thủy còn sinh ra một loại ếch tinh khôn biết
chơi đàn, khi du khách tới, chúng thường phát ra những tiếng kêu vui
tai, tựa như tiếng đàn réo rắt du dương, tuyệt diệu không thể nào tả
xiết. Chuông đồng treo trên góc thềm đung đưa vang lên những tiếng tính
tang trong trẻo tựa thời gian trôi, luôn có những người đứng trước lò
hương đồng lốm đốm vết han gỉ nhớ lại sự phồn thịnh của những ngày đã
qua. Lúc ấy không nghe thấy tiếng đàn, mà dường như nghe thấy tiếng ếch
kêu, âm điệu như nước chảy mây thu ấy liệu có đang vang lên ở một nơi
khác, hoặc chỉ có người phong nhã mới có thể nghe thấy âm thanh tuyệt
diệu năm đó?
Do nhuốm màu hương khói, nên ngói lợp ngả sang màu
đen sậm; do Phạn âm ngâm nga, nên lầu gác thanh đạm như được tẩy rửa.
M