
bỗng giật mình tỉnh dậy, cảm thấy cơn
đau trong lồng ngực đã giảm đi rất nhiều. Gã thử vận khí, thấy thông
suốt hơn, nhưng đến huyệt Đại Trùy ở sau gáy lại bị tắc nghẽn, không thể vận khí lên được nữa, càng cố sức thì càng nghe đầu óc choáng váng. Thử vài lần mà không được, Thúc Hiến bỏ cuộc, lần dò kiểm tra xung quanh.
Nơi này giống như một thạch động ngầm nằm dưới nền đất của trang Thụy
Khuê, thông với hồ sen trang nội. Bởi vậy, khi Liễu Bá đánh Thúc Hiến
rơi xuống hồ, thân thể gã chịu dư lực quá mạnh mà bị đẩy xuống sâu hơn,
sau đó được dòng chảy ngầm dưới hồ đưa đến đây. Không có một chút ánh
sáng nào lọt được vào trong động, bốn phía đều là bóng tối mênh mông
không có điểm đầu, không có điểm cuối.
Thúc Hiến cứ theo cảm tính đi về phía trước, đến khi đụng phải vách động thì bắt đầu men theo đá mà dịch chuyển sang trái. Được khoảng mười bước thì có một khoảng trống, tựa như lối vào một thông đạo. Thúc Hiến chưa
vội bước vào mà tiếp tục dò dẫm trong bóng tối, sau khi quay trở lại mép nước, biết chắc trong động chỉ có một lối đi duy nhất kia, gã mới thận
trọng tiến vào trong.
Thông đạo rất hẹp, chỉ vừa đủ cho một người đi, Thúc Hiến phải cúi xuống mới không bị đụng đầu vào đá. Gã cho rằng thạch động này nằm trong lòng đất thì thông đạo nhất định phải hướng lên trên, nhưng có vẻ như thông
đạo này chỉ đi ngang mà thôi. Thúc Hiến ước chừng đi được khoảng bảy
chục bước thì trần thông đạo cao hơn, gã không phải cúi đầu nữa. Gã đi
thêm ba chục bước nữa thì đụng phải tường, không thể đi tiếp được nữa.
Gã dùng sức đập mạnh lên những khối đá xung quanh, thử xem có một cánh
cửa nào đó bị ẩn giấu hay không, nhưng chỉ cảm thấy đau tay mà vách đá
vẫn trơ trơ như cũ.
Mệt mỏi và chán nản, Thúc Hiến ngồi phịch xuống ôm gối. Có lẽ số phận đã định gã phải chết ở đây rồi chăng? Liệu có thể bơi ngược lối cũ để quay về hồ sen trong trang nội hay không? Thúc Hiến thầm nghĩ, lại thấy mi
mắt nặng trĩu. Với tình trạng hiện tại của gã, không ngờ đi một trăm
bước thôi cũng cảm thấy mệt mỏi đến như vậy. Gã gục đầu lên gối, nhắm
mắt thiu thiu ngủ.
“Thí chủ đã đến rồi đó chăng?”
Âm thanh bình hòa ấm áp đến với gã trong cơn mê lại vang lên bên tai.
Thúc Hiến bừng tỉnh, sờ soạng xung quanh nhưng hoàn toàn không có ai cả. Gã hơi vừa thấy sờ sợ, lại vừa nhen nhóm hy vọng, gấp giọng hỏi:
“Ông là ai vậy? Ông ở đâu?”
Giọng nói ấy lại chậm rãi rót vào tai gã:
“Bần tăng là thí chủ mà không phải thí chủ, lại chẳng phải là ai hết. Chẳng là ai thì làm gì có ở đâu.”
Thúc Hiến không thấy người đâu, mà tiếng nói vẫn vang lên ngay bên tai, bèn hỏi tiếp:
“Ông là người hay quỷ?”
Bên tai gã, tiếng nói ấy vẫn vang lên đều đều, không nhanh không chậm:
“Chẳng là ai cả, không có người, không có quỷ. Quỷ cũng là người. Người cũng là quỷ.”
Thúc Hiến ngớ người, như hiểu như không, lại chẳng biết hỏi gì tiếp,
không gian chìm vào tĩnh lặng vô biên. Gã cứ ngồi trầm tư trong bóng
tối, suy nghĩ về những câu trả lời của người bí ẩn kia. Trong dòng suy
nghĩ miên man, những lời nói kỳ lạ mà gã nghe được trong cơn mê lúc
trước lại xuất hiện. Thúc Hiến vô thức lẩm nhẩm đọc lại.
“Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời…”
Lúc này, giọng nói bí ẩn ấy lại chậm rãi rót vào trong tiềm thức của Thúc Hiến, vừa trầm ấm vừa ngân vang:
“Trí thế biện thông lành ít dữ nhiều, bởi lẽ gắn với phiền não khổ đau,
từ phiền não khổ đau mà sinh ra, cũng sinh ra phiền não khổ đau. Chỉ có
Bát nhã mới được tự tại, soi suốt các pháp, là Thật tướng Bát nhã, Quán
chiếu Bát nhã.”
“…Các pháp dẫu hiện ra trước mắt, tự thể vẫn chỉ là không. Do nhân duyên giả hợp, nên không có ngã thể. Các pháp vốn dĩ là không, nên trí cũng
phải là không, có như vậy mới không bị chướng ngại, soi suốt được các
pháp. Trí ấy là Bát nhã vậy…”
“…Ngũ uẩn hợp thành một chúng sinh. Sắc uẩn tạo chính là xác thịt con
người thuộc về sắc pháp… Thọ, tưởng, hành, thức thuộc tâm pháp. Sắc tâm
hòa hợp tạo nên con người…”
“…Lục căn trong sạch thì lục trần không bám…”
“…Bồ tát nhờ hành trì quán chiếu Bát nhã, soi suốt thấy ngũ uẩn đều
không, bởi thế không còn chướng ngại, giải tỏa mạn nghi, giải tỏa sợ
hãi, thành tựu vô úy. Tâm thanh tịnh để nhìn rõ sự thật, vọng niệm tan
biến, giải thoát khỏi mộng tưởng đảo điên của nhân sinh…”
Cứ như thế, người bí ẩn giảng hết bài kinh cho Thúc Hiến. Gã trầm vào
nhập định, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, không còn cảm nhận được sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nữa. Tâm trí của gã hoàn toàn
tĩnh lặng, trong vô thức vận khí từ huyệt Nhân Trung nhập huyệt Thừa
Tương ở giữa cằm, qua huyệt Thiên Đột, xuống huyệt Đản Trung giữa ngực,
tới huyệt Khí Hải, dồn xuống huyệt Hội Âm rồi qua huyệt Trương Cường. Từ huyệt Trương Cường đẩy khí lên huyệt Mệnh Môn ở thắt lưng, đến Linh Đài rồi qua huyệt Đại Trùy ở sau gáy, chuyển lên Bách Hội trên đỉnh đầu rồi xuống Ấn Đường, trở về huyệt Nhân Trung, thông suốt dễ dàng.
Thật lâu sau, Thúc Hiến chậm rãi mở mắt ra, cảm thấy trong ngực không
còn đau như trước nữa. Gã thử vận khí theo v