
trong lòng chỉ
cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, cố gắng mỉm cười, nói: “Mỗi người một chí
hướng.”
A Mạch thấy thần sắc trên mặt Đường
Thiệu Nghĩa thay đổi, biết trong lòng anh ta đang thất vọng đến cực
điểm, cũng không nói toạc ra, chỉ cười nói: “Được rồi, đại ca, đừng vội
nghĩ về chuyện sau này sẽ như thế nào nữa, cứ chờ đến khi quay trở lại
Thái Hưng xem tình hình thế nào đã rồi nói sau.”
Trung tuần tháng năm, tiết trời đã
vào hạ, cuối cùng quân Giang Bắc cũng đã đến ngoại thành Thái Hưng. Bắc
Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa, nên đã cho Chu Chí Nhẫn lãnh binh lui về phía bắc một trăm dặm, để quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng.
Nhưng Vệ Hưng lại chưa vội vàng đưa đại quân vào thành, mà làm theo đề
nghị của A Mạch, hạ lệnh cho đại quân đóng quân ở phía tây thành Thái
Hưng, đồng thời lưu những tướng lĩnh tâm phúc đóng ở trong doanh trại,
chỉ dẫn theo vài vị tướng lĩnh cao cấp cùng vài thuộc hạ văn chức tiến
vào Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, là thành lớn nhất
vùng Giang Bắc của Nam Hạ, từ năm Thịnh Nguyên thứ hai đến nay đã bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm! Trong thành vốn dự trữ sung túc nên không hề
xuất hiện thảm kịch người ăn thịt người, nhưng dân chúng trong thành
cũng đã sớm quen với việc nhìn cửa thành đóng chặt mà lo lắng đề phòng
từng ngày. Nay cửa thành đột nhiên được mở ra, lập tức mọi người đều có
chút ngây ngốc, đợi đến khi thấy đoàn quân tiến vào là quân Nam Hạ, dân
chúng tưởng rằng chiến trận bấy lâu nay cuối cùng đã giành được thắng
lợi, vui sướng không kìm nén được mà hoan hô ầm lên, lại có người lấy
pháo ra đốt thả bên đường, nào ngờ khi âm thanh tiếng pháo vẫn còn nổ
giòn bên tai, lại thấy người Bắc Mạc cũng tiến vào cửa thành…
Lần này, dân chúng Thái Hưng đúng là trợn tròn mắt mà nhìn.
Nghị hòa vốn là hai bên đều phải phái sứ thần đến cùng bàn bạc, năm Thịnh Nguyên thứ hai, Nam Hạ và Bắc Mạc
đã từng cùng nghị hòa một lần, nên lần này hai sứ đoàn vừa thấy mặt
nhau, hắc hắc! Quả thật đều là chỗ quen biết cũ! Thế nên, ngay cả màn
giới thiệu cũng miễn, cả hai phái đoàn liền ngồi luôn vào bàn đàm phán!
Trọng tâm nghị hòa lần này, đơn giản
là thông qua đàm phán mà đem tình hình tiến thủ trên chiến trường ra đặt lên bàn cân, tuy rằng mồm mép đôi bên không ngừng đùa bỡn với nhau,
nhưng dựa vào thực lực sau lưng, những gì ở trên chiến trường không
chiếm được thì trên bàn đàm phán, theo thông lệ cũng không thể chiếm
được. Hiện giờ tại vùng Giang Bắc, ngoại trừ thành Thái Hưng đang trong
trạng thái bấp bênh, còn lại hầu như đã rơi vào tay người Bắc Mạc, vậy
thì thử nói xem chữ “Hòa” này nên đàm pháp như thế nào?
Sứ đoàn nghị hòa của Nam Hạ chịu áp
lực rất lớn! Trước khi lâm trận, hoàng đế đã có mật chỉ rằng: Không được để mất đất, tiền cống hàng năm không ngại nhiều hay ít, có tăng tới
trăm vạn cũng không tiếc. Lời này nói trắng ra chính là, chỉ cần không
cắt đất, còn bồi thường bao nhiêu tiền ta cũng không quan tâm! Nhưng vấn đề ở chỗ, người ta chẳng những muốn ngươi nhất định phải bồi thường
tiền, mà còn muốn ngươi đem nửa vùng Giang Bắc cũng phải nhượng lại cho
anh ta! Mục tiêu của hai bên quá khác xa nhau, thật đúng là không có
cách nào để đàm phán!
Cao Cát xoa tay bối rối, ái chà chà,
đây chẳng phải là muốn lấy mạng của hắn ta sao! Chẳng có cách nào, chỉ
có thể đem tình huống trước mắt mà hồi tấu lên triều đình vậy. Đợi nửa
tháng sau, trong triều cuối cùng cũng có hồi âm, nói rằng có thể giao Dự Châu cho Bắc Mạc, nhưng Thái Hưng thì quyết không thể. Cao Cát được
triều đình tin tưởng, lại tiếp tục cùng sứ thần Bắc Mạc biện luận, nhưng sứ thần Bắc Mạc là Trương Vương lại mồm miệng xảo quyệt, thế nào cũng
kiên trì đòi Nam Hạ phải nộp cống. Cao Cát bất đắc dĩ đành phải lần nữa
hồi tấu lên triều đình.
Lần này hồi âm của triều đình lại mất rất nhiều thời gian, chư tướng chỉ biết trong triều cùng thát tử nghị
hòa, lại không biết việc nghị hòa diễn ra như thế nào. A Mạch hộ tống Vệ Hưng ở trong thủ phủ thành Thái Hưng, song rất ít khi nhàn rỗi, mỗi
ngày đều luyện võ trong sân, đồng thời cũng ở cùng với các tướng lãnh
khác vừa đến thành Thái Hưng. Chư tướng trong quân Giang Bắc được nghe
chuyện A Mạch lập kì công, cứu quân Giang Bắc từ thoát khỏi nguy nan,
hiện nay lại thấy nàng không hề cậy công mà kiêu ngạo, ngôn từ cử chỉ vô cùng bình dị gần gũi, vì thế càng trở nên kính trọng.
Người Nam Hạ tự xưng là đất nước của
lễ nghi, luôn dùng lễ để đối đãi với người ngoài, nên đối với sứ đoàn
Bắc Mạc cùng tướng lãnh hộ vệ lại càng tương kính như tân. Nhưng quân
Giang Bắc và Bắc Mạc giao chiến đã lâu, mọi người trong quân đối với
thát tử có nhiều nỗi phẫn hận, mỗi lần ở trong thành Thái Hưng nhìn thấy thát tử đều khó tránh khỏi tức giận, nhất thời nóng nảy không kiềm chế
được liền rút đao xông vào, mặc dù Vệ Hưng ban nghiêm lệnh ngăn cấm,
nhưng trong thành, tướng sĩ hai bên lại vẫn thường xuyên xảy ra xô xát.
Vệ Hưng vài lần định giết người lập
uy, nhưng vì A Mạch ở bên cạnh ra sức khuyên can mới bảo vệ được tính
mạng của mấy tướng lãnh kia. A Mạ