
o hai lưỡi.
Những ngày ngắn ngủi ở Amsterdam, vì hết phòng chúng
tôi phải ở ngay khu phố dành cho khách du lịch gần ga xe lửa trung tâm thành phố,
nơi tập trung rất nhiều quán cà phê kiểu này. Mỗi lần đi ngang qua quán đúng
lúc có người mở cửa bước ra, mùi cà phê đâu không thấy, chỉ thấy mùi cần sa
thoang thoảng trong gió. (Mỗi lần tôi kể tới đây, đám bạn tôi lại rụt đầu, le
lưỡi: "Ghê quá, ngửi mùi vậy có ghiền không?") Đối diện chỗ tôi ở là
một quán cà phê tên Grasshopper cao đến mấy tầng, buổi tối đèn màu xanh châu chấu
thắp sáng rực soi bóng xuống con kênh nước chảy loang loáng. Khi gặp cô bạn người
Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống
cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết trong đó tụi nó làm gì không?" rồi
đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như đang "phê" thuốc. Khi được
hỏi có hút không, cô bảo:
"Hồi trẻ ở đây ai chẳng thử, phần lớn thấy chẳng
có gì hay ho nên thôi. Thông thường cái gì cấm đoán người ta mới thích, với lại
còn tùy ý thức mỗi người mà", rất thản nhiên như được hỏi có thích chơi
bóng bàn không vậy.
Bởi không có gì hay ho nên cô quyết định đưa chúng
tôi đến một bruine kroeg (tiếng Hà Lan nghĩa là quán cà phê nâu, ban đầu tôi cứ
tưởng đây mới là loại hình cà phê như đã đề cập ở trên, vì tên gọi dễ liên tưởng
đến... nàng tiên nâu, nhưng không phải). Đó là một trưa hè nóng gần 38 độ C,
dân tình khoái chí đổ hết ra đường phơi nắng tận hưởng cái nóng phương Bắc hiếm
hoi. Những chiếc bàn kê bên ngoài, dọc theo bờ kênh của quán cà phê nâu chúng
tôi đến đã chật ních, nhưng để thật sự hiểu được hết chữ "gezellig" mà
người địa phương rất thích dùng, nghĩa đại loại là ấm áp, thân mật, vui vẻ...,
bạn nên ngồi bên trong. Những bruine kroeg ở Amsterdam đã có tuổi đời vài trăm
năm, với cách trang trí như trong những chiếc tàu thủy xưa, xà nhà nặng trĩu,
ván lót sàn và bàn ghế gỗ sẫm màu, tên gọi của nó có lẽ bắt nguồn từ những bức
tường ám khói thuốc lá nâu qua thời gian, dưới sàn có cả cát biển và trải thảm
Ba Tư để lau cà phê hay bia bị tràn. Trong quán chúng tôi đến có cả một cây kèn
khổng lồ kiểu xưa để trong góc. Cà phê Hà Lan không đặc sắc lắm nên chúng tôi,
cũng như hầu hết những người vào bruine kroeg, mặc dù gọi là "đi uống cà phê"
nhưng lại chọn bia, vốn là đặc sản ở đây.
Mãi đến khi tới Stockholm, tôi mới tự nghiệm ra một
chân lý là quốc gia nào uống nhiều bia như Anh, Scotland, Đức, Bỉ, Hà Lan... sẽ
không uống nhiều cà phê và ngược lại. Bởi vậy, không ngạc nhiên chút nào khi biết
ở Thụy Điển, nơi bia bị đánh thuế rất nặng và đắt gấp bốn, năm lần những nước
châu u khác, cà phê là một phần không thể tách rời cuộc sống. Ở Thụy Điển có một
từ rất phổ biến, fika, nghĩa là đi uống cà phê, thoát khỏi những bận rộn thường
ngày của cuộc sống, gặp gỡ bạn bè cũ, làm quen bạn mới, tán gẫu... Fika gần như
một thứ tôn giáo ở đây, người ta có thể fika sáng, trưa, chiều, tối, trong những
Kafekoppen ấm cúng. Sau một ngày quanh quẩn trong thành phố Bắc u này, qua khu
phố cổ muôn màu Gamla Stan với những con đường đá cuội nhỏ bé chỉ dành cho
khách bộ hành, chúng tôi nghỉ chân nơi Stortorget, quảng trường chính của thành
phố có đặt nhiều ghế dài và những chậu hoa tươi thơm dìu dịu, có trong rất nhiều
tấm ảnh của ban nhạc người Thụy Điển ABBA, nghe mùi hạt cà phê rang từ những
quán cà phê dọc quảng trường ngào ngạt trong không gian.
Thụy Điển đắt đỏ nhất trong số những nước tôi từng
đi, mỗi lần qua những nước EU khác đều có thể ăn uống thoải mái vì vật giá rẻ
hơn ở Anh, nhưng qua Thụy Điển, ông bạn Alastair và tôi phải thực hiện chính
sách "thắt lưng buộc bụng". Song mùi cà phê mới pha thơm lừng như níu
bước chân làm tôi tự thưởng cho cả hai một chầu trong Sundbergs Konditori, tiệm
cà phê và bánh ngọt xưa nhất Stockholm, có từ năm 1785, nhỏ xíu và ấm áp với những
ấm samovar bằng đồng đựng đầy cà phê mới pha sóng sánh nóng bỏng, đặt trên bàn
thấp cạnh quầy để khách tự rót lấy.
Bánh ngọt ở đây quả tuyệt vời. Tôi ăn một chiếc bánh
không biết tên, mềm và dẻo như tan trong miệng, chính giữa có một lớp mứt mỏng
vị thanh thanh dễ chịu, trên trải kem mềm và dày làm từ một thứ trái cây ngòn
ngọt màu vàng mướt. Cà phê ở đây hơi giống caffè Americano, đựng trong những
tách dày và nặng bốc khói nghi ngút, không đậm đặc nhưng đủ độ mịn và đắng để
đi kèm với các loại bánh ngọt thơm phức cô phục vụ đang bê ra trên những khay gỗ
từ lò nướng bên trong.
Bán đảo Scandinavia vào thu sớm hơn những nơi khác,
lá vàng xào xạc rụng đầy những công viên và trời đã lạnh hơn nhiều. Mặc dù vậy,
những quán cà phê Stockholm vẫn kê bàn ghế ra vỉa hè cho dân tình ngồi
"fika", và vì trời lạnh nên quán nào cũng để sẵn... mền cho khách quấn
nếu chọn ngồi ngoài. Những chiếc mền cũng là một phần trang trí của quán, được
mua thành bộ có màu sắc hợp với bàn ghế và màu sơn tường, đặt cạnh ghế ngồi. Thật
buồn cười khi thấy mọi người uống cà phê kiểu alfresco, nhưng không đeo kiếng
đen trong cái nắng chói chang mà vừa ngồi quấn mình thu lu tr