
oài, góc kia có tiếng
người mắng nằm với ngồi chân đạp cả vào mặt người ta, chỗ giữa giường một giọng
đàn bà cằn nhằn, bóp gì bóp đau bỏ mẹ, đám cuối nhà trọ bỗng ré lên cười không
ra cười, khóc không ra khóc, chỉ thấy những tiếng hự hự ử ử và tiếng người
mắng, động cỡn với nhau cũng phải giữ ý chứ, người ta nằm ngồi đầy thế này mà
cứ như ở nhà í. Liểu, Điền và Bính (từ giờ mỗi khi nói đến ba người phải kể đến
Liểu đầu tiên, vì đã được tôn danh trưởng đoàn khi ba người đặt chân xuống thị
xã Bắc Cạn), thuê gọn một chỗ nằm ở phía trong cùng, chỉ cách một tấm vách nứa
ngăn, như bức tường, là đường đi lại. Thật là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa,
tưởng nằm phía trong cùng thì không chịu cảnh chen lấn xô đẩy, và cả xờ xoạng,
móc túi cũng chưa biết chừng, ai ngờ lại sát đường đi, suốt đêm cứ rào rào như
rừng động. Nào gái ăn sương sau một hồi lượn lờ ngoài bến xe, ngã ba đón được
khách lại đưa vào quãng đường vắng cho các chàng thoả trí tang bồng. Nào những
anh lái xe miền xuôi trên đường chở hàng lên tỉnh biên giới Cao Bằng, thể nào
cũng nghỉ lại thị xã Bắc Cạn để sáng mai ban ngày ban mặt vượt đèo Gió, đèo Cao
Bắc cho an toàn, chuộng của lạ, thích lang chạ, lại được các em ra tận xe chèo
kéo vào đây đùa dỡn, quăng quật nhau ôi ối. Rồi những người từ các bản làng xa
trong thung sâu, trên lưng núi, xuống từ ban chiều để mai chơi chợ sớm, xong
còn kịp về, cũng đưa nhau vào con dốc lối đi Chợ Đồn, cạnh đám nhà trọ, tụ tập
ăn uống, hát xướng, đùa dỡn, và cả làm tình, cứ rào rào như tằm ăn rỗi suốt
đêm. Không những thế lại còn xe. Thị xã Bắc Cạn những năm rày nhiều xe cộ qua
lại hơn bất cứ bao giờ. Nào xe chở khách ngày mấy chuyên Hà Nội, Thái Nguyên
lên, Cao Bằng, Tinh Túc xuống. Nào xe chở hàng hoá từ miền xuôi lên, những năm
rày đặc biệt nhiều. Nhưng nhiều nhất phải kể đến xe quân đội, lại phần nhiều
chạy về đêm, với đủ các loại xe, chuyên chở mọi thứ, từ bộ đội, quân trang,
lương thực, thực phẩm, hàng hoá công nghệ phẩm đến súng đạn, pháo cao xạ, và cả
tên lửa. Vậy nên, không những thị xã miền rừng chẳng khác gì thị trấn ấy cả đêm
hầu như không ngủ, mà Liểu, Điền, đến cả Bính đang tuổi ăn tuổi ngủ cũng cả đêm
gần như thức trắng. Cũng vì thế mà mới sáng ra.
Khi ông Liểu vừa ngồi dậy, đang luồn tay xuống dưới chiếu
đầu giường lấy chiếc túi con khoác vào người để đi vệ sinh, không gì bằng của
liền người, tiền mua sắn và tiền ăn đường có bao nhiêu đều để trong này, không
khoác vào người, biết đâu đấy. Khi ông Liểu vừa khoác chiếc túi lên vai, thì
nghe một giọng đàn ông khàn khàn từ giường bên hỏi sang:
- Mấy người dưới xuôi lên hả?
- Ừ, chúng tồi dưới xuôi lên.
- Có phải đi mua sắn không?
- Ừ, đi mua sắn. Ông có biết đâu có sắn bán không?
Người đàn ông không cần nhìn kỹ mặt mũi Liểu già trẻ ra sao,
nói ngay:
- Mua sắn thật thì đi với tao, bao nhiêu cũng có.
Nghe đến đấy, Điền vùng dậy, gạ xoắn xoằn xoặn:
- Thật không. Bao giờ ông về, cho chúng tôi đi theo với nhá!
Vừa nói, Điền vừa tụt xuống giường, đi lại chỗ người đàn ông
dân tộc Tày đang lay vai một người nữa nằm ngủ bên cạnh, ra ý gọi dậy. Trong
ánh sáng nhàn nhạt của buổi rạng đông miền rừng, Điền nhìn người đàn ông không thật
rõ lắm. Anh dừng lại hồi lâu, nhìn chằm chằm vào người đàn ông đang ngồi quay mặt
vào, tay lay vai một người, có lẽ là con cháu gì chăng, đang nằm ngủ bên cạnh.
Ông ta dễ đến ngoài năm mươi tuổi, người trông đầm đậm, vận chiếc áo chàm cũ mà
màu vẫn còn thẫm. Khi người nằm bên được đánh thức lồm cồm ngồi dậy, người đàn
ông ngoài năm mươi quay mặt lại. Chỉ đợi có thế, Điền bỗng nói như reo lên:
- Bác Thàng, có đúng bác Thàng không?
Người đàn ông dân tộc Tày đang ngồi trên giường bỗng nhoài
người ra, hỏi gấp:
- Điền, có thật là mày không, hả Điền!
Điền vội nói như người ngạt hơi:
- Vâng, em, Điền để súng cướp cò suýt vào bác đây mà!
- Ối giời, thằng Điền! Sau lần ấy mày trốn đâu mãi đến giờ
mới dẫn xác lên đây làm gì, hả Điền?
Điền nhìn Thàng, nửa muốn nói, nửa lại như im lặng, bởi cuộc
gặp quá bất ngờ, quá xúc động, hoàn toàn nằm ngoài những gì anh nhớ về đồng đội
của mình, hay chính xác hơn, ngày ấy hai người ở với nhau quá ngắn, anh chưa
kịp biết tý gì về quê quán của Thàng. Thế nhưng vừa nhận ra nhau, trong hộp nhớ
của Điền liền bật ra cái đêm hôm ấy, nên chỉ bằng một câu ngắn gọn: “Điền để
súng cướp cò suýt vào bác đây mà!”, là Thàng đã reo lên: “Ối giời, thằng Điền!”.
Vâng, đúng thằng Điền gác đêm hôm ấy, khi đơn vị vừa vượt qua sông thì trời mưa
rả rích, lệnh trên cho dừng lại trong cánh rừng bạt ngàn cao su. Bộ đội tranh
thủ nghỉ lấy sức, ai có thứ gì ngả lưng xuống thứ đó. Người để ba lô vào gốc
cây, tỳ đầu lên, ngủ ngồi. Người có võng thì mắc lên giữa hai cây cao su để
ngủ. Trong số những cái võng mắc lên cây ấy có võng của tiểu đoàn phó Nông Văn
Thàng, nằm chếch một quãng chừng mươi cây cao su là tới chỗ gác, lúc ấy đang
vào phiên của Điền và Hiện. Bấy giờ dễ khoảng ba giờ đêm, Điền và Hiện ngồi gác
buồn ngủ quá, Hiện nghĩ ra trò lấy súng ra lau cho đỡ buồn ngủ,