
tới.
Sở Bắc Tiệp lao đi như bay.
Gió Bắc tê buốt, thét gào bên tai.
Đã bao lần
chàng phi ngựa như tên bắn trong gió, tuấn mã tung bốn vó, đường trường
rong ruổi, gió thổi bạt áo chàng, bay phần phật, để dòng sông thuần phục dưới chân, để dãy núi cao ngạo phải cúi đầu.
Ngựa phi như bay, oanh liệt mà sảng khoái.
Lúc này đây, chàng không còn cảm nhận được chút gì sảng khoái.
Gió thét gào rát mặt, nhưng cảm giác đau như dao cứa ấy chẳng thể sánh được với nỗi
đau trong tim chàng. Trái tim như bị lửa đốt của chàng đang treo lơ lửng giữa tầng không.
Biệt viện ẩn cư yên tĩnh cách xa tầm mắt, nhưng hương mai thoang thoảng cứ quẩn quanh trái tim nóng rẫy của chàng.
Vốn hiểu rõ
tính tình vương huynh, nay thấy ca ca dốc hết tâm huyết, không từ thủ
đoạn giữ mình lại thành đô, Sở Bắc Tiệp cũng đoán được cách đối phó nơi
biệt viện ẩn cư sẽ kinh khủng nhường nào.
Mười ngón tay ngọc chỉ biết gảy đàn của Sính Đình sao có thể đối phó với sự khiêu chiến của Đông Lâm vương?
Liệu có phải thân hình mảnh mai ấy giờ đang đứng trước gươm đao sáng loáng?
Dáng hình yếu mềm của nàng, chàng có ôm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Khuôn mặt nhỏ nhắn, thanh tú của nàng, chàng có ngắm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…
Tiếng đàn uyển chuyển của nàng, chàng có nghe bao nhiêu lần cũng vẫn như lần đầu…
Nữ nhân khiến người ta yêu thương ấy, sao không thể giơ cao đánh khẽ mà bỏ qua cho nàng?
Nàng đã quy ẩn.
Nàng đã không màng đến chuyện thế gian.
Nàng đã phải chịu bao đau đớn, bao tổn thương, chỉ mong quên hết chuyện cũ, bằng lòng làm một nữ nhân.
Nữ nhân của Sở Bắc Tiệp.
“Sính Đình
không hề tham lam, chỉ mong trước khi dẫn quân ra chiến trường, chàng
trở về gặp Sính Đình. Vào sinh thần của Vương gia, Sính Đình sẽ nói với
chàng một việc rất quan trọng.”
Tâm nguyện thật đơn giản biết bao!
Tâm nguyện mà một nam nhân bình thường cũng có thể đáp ứng.
Nhưng chàng không phải nam nhân bình thường. Chàng là Sở Bắc Tiệp, là Trấn Bắc vương của Đông Lâm.
Sở Bắc Tiệp
vung roi, quất mạnh lên lưng ngựa, đôi mắt vằn đỏ. Gió thổi tung vạt áo, nhưng vẫn chẳng thể thổi tắt ngọn lửa đang thiêu đốt tâm can chàng.
Hai bên tuyết trộn lẫn bùn, con đường ở giữa vươn dài thẳng tắp, như không có điểm dừng.
Đường về nhà chưa bao giờ dài đến thế.
Ánh mắt Sở Bắc Tiệp nhìn thẳng về phía trước.
Ánh mắt xuyên qua thăm thẳm vạn tầng mây, Sính Đình liệu có an toàn?
Không thấy
dung nhan kiều diễm của Sính Đình, lọt vào tầm mắt Sở Bắc Tiệp là lá cờ
thấp thoáng đằng xa. Đội quân phía trước đang thúc ngựa tiến tới. Sở Bắc Tiệp căng hết tầm mắt nhìn lá cờ tung bay trong gió, hiện rõ chữ “Mâu”
quen thuộc.
Lòng như
trĩu nặng, chàng vung roi thúc tuấn mã đã mệt đến sùi bọt mép, xông đến
đội quân phía trước, ghìm cương, hét lớn: “Thần Mâu ở đâu?”, giọng khản
đặc đến khó nghe bởi lâu không uống nước.
Thấy Sở Bắc Tiệp, Thần Mâu vội vã xuất hiện, nhảy xuống ngựa, hành lễ: “Vương gia, Thần Mâu có mặt!”.
“Ngươi quản lý doanh trại Long Hổ, sao dám tự ý rời bỏ vị trí?”
Thần Mâu
đáp: “Mạt tướng nhận được điều lệnh của Đại vương, năm ngày trước đến
Lạc Minh bẩm báo với Phú Lang vương, giờ về thành đô bái kiến Đại
vương”.
“Doanh trại Long Hổ giờ do ai tiếp quản?”
“Phụng vương lệnh, do thuộc hạ của Phú Lang vương là Phong Mân tạm thời tiếp quản.”
Phong Mân
tướng quân đã nhận lệnh của Phú Lang vương tiếp quản doanh trại. Dù có
Thần uy bảo kiếm trong tay, nhưng với thân phận hiện nay, Sính Đình
không thể điều động được đại quân Long Hổ.
Đông Lâm vương đối phó với đệ đệ mình chẳng chút sơ hở.
Sở Bắc Tiệp tức giận đến đau lòng, trời đất như chao đảo.
Sính Đình không nơi cầu cứu, chỉ mình chàng là hy vọng duy nhất.
Với trí tuệ
của Sính Đình và cái hẹn mồng Sáu, nhất định nàng sẽ cố nghĩ cách để trì hoãn quân địch, cho đến lúc chàng trở về biệt viện.
Đợi ta, nàng hãy đợi ta!
Hai bàn tay rộp máu, nhưng Sở Bắc Tiệp không hề đau. Chàng nắm chặt dây cương, ngồi thẳng trên lưng ngựa.
Theo Sở Bắc
Tiệp chinh chiến trên sa trường nhiều năm, thấy bộ dạng Vương gia lúc
này, Thần Mâu biết chàng đã cưỡi ngựa nhiều canh giờ, hai tay cung kính
dâng lên túi nước của mình: “Vương gia uống ngụm nước. Vương gia đang
vội ra chiến trường sao? Khẩn cấp thế này, e là binh sĩ và tuấn mã không chịu nổi”.
Sở Bắc Tiệp
nhận lấy túi nước, ngửa cổ tu ừng ực hết sạch, rồi quay lại nhìn ba ngàn quân tinh nhuệ đã theo mình suốt một ngày hai đêm.
Ra khỏi
thành đô, suốt chặng đường họ chỉ biết vung roi, không hề ngừng nghỉ, ai cũng sức cùng lực kiệt, bàn tay cầm dây cương rướm máu, dọc đường đã có mấy chục binh sĩ không chịu được mà ngã lăn ra đất.
Cầm quân đã nhiều năm, chưa bao giờ chàng không biết thương xót quân sĩ đến thế.
Lòng trĩu nặng, Sở Bắc Tiệp quay lại hỏi Thần Mâu: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu quân?”.
“Không nhiều, một ngàn bảy trăm người, đều là quân tinh nhuệ trong tay mạt tướng.”
“Giao cả cho ta.” Sở Bắc Tiệp rút binh phù, giơ lên không trung, hét lớn, “Bản vương thống lĩnh binh mã toàn quốc, các tướng sĩ nghe lệnh! Ba ngàn kỵ binh
tinh nh