
truyền đến tai
rất nhiều người.” Đông Lâm vương hậu cười chua xót, vẻ mặt đượm hồi ức,
“Sau khi vương cung bị thiêu cháy, ai gia thường nghĩ, cảnh tượng lúc
Đông Lâm lập quốc sẽ như thế nào? Chắc cũng là hàng vạn tướng sĩ, lê dân trăm họ trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, không tiếc đổ máu để bản thân và thê nhi, già trẻ nam nữ được sống những ngày hạnh phúc, yên
bình?”.
Tại sao mấy trăm năm sau, quốc gia in hằn trong tim lại quên mất con người?
Hàng ngàn hàng vạn dân, hàng ngàn hàng vạn cuộc sinh ly tử biệt, yêu hận giằng co.
Ánh mắt buồn bã của Đông Lâm vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài, hạ quyết
tâm: “Quốc gia quan trọng, lẽ nào lê dân trăm họ lại không đáng quý?
Không có dân chúng an cư lạc nghiệp, Đông Lâm cũng chỉ tồn lại trên danh nghĩa. Trấn Bắc vương cứ yên tâm mà làm những điều mình muốn”.
Không ngờ
Vương hậu lại quyết đoán như vậy, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, quỳ một gối, nói từng tiếng: “Ơn này của vương tẩu, Sở Bắc Tiệp xin ghi lòng tạc
dạ”.
Chàng thật chẳng dám tin lại có thể dễ dàng vượt qua cửa ải khó khăn này như thế.
“Đi đi. Bình định thiên hạ, kết thúc thời thế sinh linh lầm than, trả cho muôn dân
những ngày yên ổn.” Vương hậu khẽ nhướng môi, nở nụ cười mơ màng, “Vương tộc cũng được, thường dân cũng chẳng sao, hãy để tất cả mọi người ghi
nhớ rằng, đã có may mắn làm người thì phải biết sinh mệnh của mình đáng
quý biết chừng nào, phải biết bản thân không phải là con kiến để người
ta chà đạp”.
Trấn Bắc vương sẽ xây dựng một đế quốc hùng mạnh.
Đế quốc ấy
không phải vì binh cường đất rộng, mà bởi mỗi con người trong quốc gia
ấy đã dần biết tôn trọng, không khinh bạc bản thân mình.
Không coi mình là con rối, là công cụ.
Họ sẽ không bị bắt đi chiến trường.
Khi đại
chiến ập đến, họ sẽ được lựa chọn, có nên chiến đấu bảo vệ tương lai của mình không, cũng giống như hôm nay họ tham gia vào Đình quân.
Giả dụ, máu của họ đã nhuộm đỏ sa trường, mảnh đất chìm trong nhiệt huyết ấy sẽ bừng lên sức sống mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
“Bạch Sính Đình…” Đông Lâm vương hậu ngửa mặt lên trời thở dài, “Khá khen cho một Bạch Sính Đình”.
Quy Lạc, trời chiều hoang vắng.
Nơi thâm cung lạnh lẽo không còn mùi hương yêu thích.
Ổ khóa im
lìm bấy lâu bỗng có tiếng động khẽ, Quy Lạc vương hậu đã trút bỏ xiêm y
lộng lẫy đờ đẫn ngẩng đầu, nhìn hình bóng uy nghiêm quen thuộc ngoài
cánh cửa.
Quy Lạc
vương Hà Túc bước qua cửa phòng, nói: “Sau trận chiến với Phi Chiếu
Hành, đại ca Nhạc Chấn của nàng sợ đại quân Vân Thường tiếp tục tấn
công, nên đã dẫn theo tàn binh trốn khỏi thành đô”.
Hà Túc ngữ khí bình tĩnh, không hề nóng giận.
Bị giam lỏng bao ngày, đây là lần đầu tiên nghe thấy tin tức của huynh trưởng, sau
một hồi im lặng, Quy Lạc vương hậu lạnh lùng cất tiếng: “Đại vương đến
để ban cho thần thiếp cái chết sao?”.
Hà Túc không lên tiếng, chậm rãi bước đến bên thê tử, giống như thuở còn mặn nồng, lấy ngón tay nâng cằm Vương hậu lên.
“Chẳng lẽ Vương hậu không muốn gặp mặt Thiệu nhi?”, Hà Túc chợt hỏi.
Vương hậu
sững người, vẻ không dám tin, nhìn về phía Hà Túc: “Đại vương… chịu cho
thần thiếp gặp Thiệu nhi?”. Dù sao nhi tử cũng là cốt nhục của mẫu thân, giọng Vương hậu có phần run rẩy.
“Tại sao lại không?”, Hà Túc thở dài, hỏi lại.
Quy Lạc
vương hậu biết tội tất phải chết, cùng lắm là chọn một dải lụa trắng,
hoặc chén rượu độc, nên đã sớm có sự chuẩn bị. Không ngờ Hà Túc lại đích thân đến đây, ngôn từ cử chỉ khác hẳn tưởng tượng của Vương hậu. Vốn
tình nghĩa phu thê bao năm, lại nghe Hà Túc nhắc đến nhi tử, Vương hậu
cũng mềm lòng đi vài phần, thần thái không còn lạnh lùng kiêu ngạo, mà
cúi đầu, buồn bã đáp: “Thần thiếp cố tình tiết lộ việc quân mai phục;
phụ thân lộng quyền; đại ca chống lại vương lệnh, tự điều quân chống lại Đại vương. Cả Nhạc gia đều phạm phải… tội chết”.
“Vương hậu
cũng biết tội của mình?” Hà Túc nghĩ đến hiện trạng loạn lạc của Quy Lạc thì lạnh lùng hừ một tiếng, thấy Vương hậu cúi đầu không đáp, lại chậm
rãi thở dài, nói, “Vương hậu đứng dậy đi. Quả nhân miễn tội cho nàng,
lệnh cho nàng quay lại chính cung, làm chủ nhân của hậu cung”.
“Sao?”, Vương hậu kinh ngạc ngẩng đầu.
Nhạc Chấn
dẫn binh đối đầu với quân thành đô, tội ngang tạo phản, đây là điều cấm
kỵ nhất trong vương tộc, không thể được xá tội.
Nhưng, vẻ mặt Đại vương không giống đang đùa.
Lãnh cung u
ám trong màn đêm, Hà Túc đứng ngay ở cửa, gần trong gang tấc, nhưng
Vương hậu không thể nhìn rõ đáy mắt phu quân, thấy như thật xa cách, chỉ còn cái bóng mơ hồ nơi đó.
Vương hậu
ngắm thật kỹ Hà Túc vốn đã ân đoạn nghĩa tuyệt với mình, rồi lại cúi
đầu: “Đại vương cứ giết thần thiếp đi. Mười lăm tuổi, thần thiếp đã được gả vào phủ vương tử, rồi Đại vương đăng cơ, phong thần thiếp làm vương
hậu, nghĩ lại lúc đó phu thê ân ái, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Giờ ván
đã đóng thuyền, mọi việc không thể cứu vãn, dù Đại vương có xá tội, thần thiếp cũng chẳng còn mặt mũi nào trở thành vương hậu. Thần thiếp chỉ
hối hận, sao có thể vì nhất thời ghen tuông mà sai người bí mật báo