
biết, không hiểu
đằng sau việc hắn dốc hết tâm sức vào chuyện này, rốt cục có âm mưu gì?
Mãi đến khi nghe thấy Điền Bỉnh Thanh gào lên: “Bệ hạ, cô nương, đến nơi rồi!”
Ta vén rèm nhìn thử, lập tức ngẩn người.
Hình như hôm qua ta còn cười hi hi vì được ra ngoài đi chơi. Ta như đang cưỡi
ngựa xuôi theo con đường nhỏ quanh co này trở về nơi xa xăm trong ký ức, ta đập đập cửa, cửa mở toang, một giọng nói cáu kỉnh cùng một chiếc
then cửa từ trong bay thẳng ra…
“Nghiệt tử, ngươi còn biết về nhà cơ đấy!”
Lòng ta đau như cắt.
Ta liền thả rèm xe xuống, “Về cung đi.”
Cánh tay rắn chắc của Phượng Triều Văn bỗng vươn ra ôm chặt ta, “Nếu đã đến đây rồi thì tiện thể về nhà xem sao.”
Cả người ta run lẩy bẩy, nỗi sợ hãi không khống chế được dâng lên trong
lòng, sau cánh cửa đóng chặt này, quá khứ lẩn trốn đâu đây.
Không mở toang cánh cửa này, thì ta vẫn vui cười hát ca trong đó, sống cuộc
sống sung sướng có cha chở che, gương mặt ta rạng rỡ, chưa từng trải qua cuộc sống phong sương.
Không mở toang cánh cửa này, thì cha vẫn đứng giữa sân, tay cầm then cửa trốn sau cổng lớn…
Phượng Triều Văn bế ta sải bước tiến lên, mỗi bước đi ta càng thêm run rẩy,
nỗi sợ hãi tột độ bao trùm cả cơ thể. Ta thét lên một tiếng chói tai,
vùng ra khỏi lòng hắn, ra sức đá, ra sức đạp, đem tất cả những sợ hãi
đối với thế gian này cùng những bi thương tuyệt vọng vùi sâu trong lòng
trút hết lên con người kia.
Hắn với hai cánh tay giữ chặt ta,
liên tục dỗ dành: “Tiểu Dật ngoan… Tiểu Dật ngoan, chúng ta chỉ vào xem
thử thôi, đi bái tế một lần…!”
Ta hận hắn! Ta hận thế gian này!
Ta hét ầm lên, chỉ mong ôm chặt hai tay giấu mình đi, để không phải nhìn
thấy cảnh vật trước mắt. Hắn vươn tay ôm ta, bị ta hết đá rồi lại đạp,
nhưng rốt cục hắn vẫn bế được, cùng ta đi gõ cửa. Ta vùi cả cơ thể đang
run lẩy bẩy vào lòng hắn, khóc lóc thảm thiết, giọng nói quen thuộc vang lên sau cánh cửa: “Ai vậy?”
Cánh cửa sơn đỏ loang lổ kêu “két”
một tiếng. Qua dòng lệ nhòa, ta nhìn thấy gương mặt già nua và mái tóc
bạc trắng như sương của bác Đồng. Phượng Triều Văn cười nói: “Bác Đồng,
ta đưa Tiểu Dật về nhà tế bái lão gia.”
Ta càng khóc dữ hơn.
Như thể hôm nay mới là ngày cha mất.
Ta quỳ trước bài vị của cha, khóc đến xé ruột xé gan, khóc đến tối sầm đất trời, lu mờ nhật nguyệt, khóc cho đến khi cổ họng khản đặc, hai mắt đỏ
ngầu, nước mắt mới dần ngừng tuôn rơi.
Bác Đồng cảm động vô cùng khi thấy ta trở về, chòm râu bạc run run, nước mắt người già đục ngầu
men theo nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt trườn xuống, giọng bác khàn
khàn khuyên bảo: “Nếu tiểu lang đã về thì cũng nên thắp nén hương cho
lão gia. Ba năm rồi tiểu lang chưa về đây, bác Đồng cứ tưởng… cứ tưởng
cháu bỏ mạng rồi…”
Ta đón lấy nén hương Phượng Triểu Văn vừa
châm, cắm vào lư hương. Lúc quỳ xuống định khấu đầu mới phát hiện còn
một người nữa quỳ ngay bên cạnh, bác Đồng đã lên trước đỡ hắn: “Bệ hạ,
chuyện này ngàn vạn lần không thể! Người tìm được tiểu lang đưa về nhà,
lão già nằm dưới đất chết cũng nhắm mắt, đâu thể nào để bệ hạ phải quỳ?”
Phượng Triều Văn đẩy bác Đồng ra, “Lão tướng quân đương nhiên xứng!” Rồi cùng ta khấu đầu trước bài vị của cha.
Bác Đồng sau đó lén hỏi ta sau lưng Phượng Triều Văn: “Tiểu lang… cháu với
bệ hạ rốt cuộc đã có chuyện gì vậy?” Bác vẫn không sửa được cách xưng hô trước kia.
Ta khóc xong một trận, trong lòng nhẹ nhõm hơn hẳn,
ngồi trong sân nhà ngày xưa, nhưng thấy cây cối hoa lá sum suê, còn tươi tốt hơn trước rất nhiều. Nghĩ đến chuyện cảnh vẫn còn mà người đã mất,
ta nghiêng đầu quệt lệ hoa đang chầm chậm lăn xuống, trưng đôi mắt sưng
phồng làm mặt xấu với bác Đồng: “Bác thấy cháu với bệ hạ có chuyện gì?”
Bác xoa đầu ta, hơn ba năm không gặp, râu tóc bác đều đã bạc trắng rồi, vẻ
ngoài già nua nhưng bàn tay kia lại vẫn ấm áp như xưa: “Bác thấy bệ hạ
rất thương tiểu lang. Nhưng điều lão gia không thích nhất khi còn sống
là chuyện cháu nhập hậu cung…” Bác quay đầu đi lau nước mắt: “Bác già
thật rồi, không nên nhắc lão gia trước mặt cháu.”
Ta ngẩng mặt
lên, từ ba năm trước sau khi cha mất, lần đầu tiên ta nhìn thẳng bác
Đồng mà lòng không chút hổ thẹn: “Ba năm trước có phải bác đã giận cháu? Giận cháu hại chết…”
Cuối cùng ta vẫn không thể nói ra.
Bàn tay bác nhẹ nhàng vuốt ve đầu ta, ngón tay thô ráp từng chút một gạt đi lệ hoa đang rưng rưng nơi khóe mắt: “Lão gia thương yêu cháu như báu
vật, chỉ hận tiểu tử nhà Yến gia không nhìn ra, đâu thể nào trách cháu?
Chẳng qua ông ấy không yên tâm về cháu mà thôi. Năm ấy trong triều cục
diện chính trị bất ổn, động một tí là có sóng gió, một cô bé như cháu,
sao hiểu nổi những mưu tính xấu xa này.”
Giọng ta run run muốn xác nhận lại lần nữa: “Cha thật sự không trách cháu ư?”
Bác Đồng một tay ôm ta, mặc cho nước mắt của ta rơi lên vạt áo: “Đứa bé
ngốc, xưa nay làm gì có con thương cha mẹ hơn cha mẹ thương con, liệu có người làm cha làm mẹ nào đang tâm trách cứ con mình? Huống hồ, hồi đó
lão gia chỉ uống một cốc trà do viên quan thuộc hạ dâng lên ở bộ binh đã ngã bệnh, vi