
g đã bị quân lính bao vây chặt, vắng như chùa bà Đanh. Căn nhà bếp
hỏa hoạn đêm qua, đầu xà vẫn còn bốc khói. Đầu lâu đám ăn mày đã nặng
mùi.
Đêm qua, anh hùng hào kiệt phá huyện nha, lửa cháy ngất
trời, người huyên náo… Nếu tui không tận mắt trông thấy, dù đánh chết
tui cũng không dám tin chuyện động trời đã xảy ra. Nghĩ lại mà sợ. Lại
nghĩ không sợ gì hết!
Những kẻ ăn mày khẳng khái dấn thân vào
chỗ chết, coi rụng đầu chỉ là cái sẹo bằng miệng bát! Nhớ chuyện đêm
qua, căn bệnh điên của cha, nghĩ sao mà giận! Đổ bể tan tành một kế sách diệu kỳ. Cha chết còn là chuyện nhỏ, liên lụy bao người chuyện lớn hơn. Các vị cái bang đều chết sạch. Phu nhân không cứu, mạng của con cũng
không còn!… Sao cha lại điên khùng đến thế hở cha?
Thỉnh thoảng
một nha dịch hối hả chạy qua sân như con mèo hoang. Thời gian hút tànn
một tẩu thuốc đã trôi qua, cụ Cử Đơn vẫn nguyên tư thế cũ, bất động như
một pho tượng đất. Bên trong huyện đường vẫn k động tĩnh gì. Thời gian
hút tàn một tẩu thuốc lại đã trôi qua, huyện đường vẫn không động tĩnh,
trước cửa nha môn bọn lính mắt trợn trừng, súng lăm lăm như đang gặp
địch. Mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ cụ Cử. Rồi thời gian một tẩu thuốc
nữa lại đã trôi qua, tay cụ Cử bắt đầu run, mồ hôi ướt đẫm lưng. Trong
huyện vẫn im ắng.
Bỗng bà cụ Tôn cất tiếng khóc:
- Xin rủ lòng thương mà tha cho!
Mọi người khóc theo:
- Xin rủ lòng thương mà tha cho!
Mắt tui nhòe đi. Qua màn nước mắt, tui thấy các hương thân dập đầu lạy đầy
đường, trước tui sau tui nhấp nhô như sóng, bên phải bên trái tiếng khóc não lòng, tiếng dập đầu bồm bộp không nghỉ không ngừng.
Mọi
người quì lạy trên đường cho đến gần trưa, ba lần thay gác, vẫn không có người trong huyện ra nhận đơn. Hai cánh tay giơ cao của cụ Cử từ từ hạ
xuống, cái lưng thẳng dần dần gập lại, cuối cùng, cụ Cử ngả lăn ra, ngất xỉu.
Giữa lúc ấy, chiêng trống vang trời, kèn đồng lanh lảnh,
đoàng đoàng đoàng ba phát súng thần công, cổng chính huyện Đào Hồng ken
két mở, thế trận bày ra trước Nghi môn. Tui không ngó đám vệ sĩ như beo
như hổ, cũng không nghi trượng oai phong. Tui nhìn cỗ xe tù chăm chăm,
hai chiếc lồng kê sát bên nhau, một chiếc cha tui Tôn Bính, chiếc thứ
hai Tôn Bính giả: Uùt Sơn. M… eo m… eo m… eo! Tui đau! Hay hay hay…, màn kịch bắt đầu! Tôn Bính nhốt trong lồng đi diễu phố. Tiết trung thu, nắng vàng chói lọi.
Kìa, dân chúng chen vai đứng kín hai bên đường.
Kìa, đám nha dịch gióng trống khua chiêng đi trước mở đường.
Kìa đám quan quân hùng hổ chặn đuôi, gươm tuốt trần, đạn đã lên nòng. Lính
Đức lại càng căng thẳng, vì Tám Chu đêm qua cướp ngục, mưu toan đánh
tráo phạm nhân. Tui một mực không nghe, sẵn sàng chịu hành hình, nếu
không, lúc này tui đã ở một nơi ma không biết quỉ không hay, chỉ còn mỗi Uùt Sơn trên cỗ xe này. Tám Chu ơi, Tôn Bính đã phụ lòng các vị, khiến
anh em hồn xuống suối vàng, đầu treo giữa chợ, chỉ mỗi tên tuổi thì trên bảng Phong thần của Miêu Xoang.
Miêu Xoang. “Đàn hương hình. Tôn Bính du nhai”
Bàn tay Tám Chu như chiếc gọng kìm xiết chặt họng tui, mắt nảy đom đóm, tai ù đặc, con ngươi lồi ra, huyệt thái dương giật giật… tui hiểu, thân này sắp đi tong! Không, không thể chết như thế này, chết trong tay Tám Chu
thì uổng quá! Tui sống là anh hùng, chết phải cứng cỏi. Anh Tám, Tôn
Bính hiểu ý anh. Anh sợ thi triển đàn hương hình, anh sợ khi thụ hình
tui kêu cha khóc mẹ, anh sợ tui khi ấy, chết chẳng chết cho, sống không
sống đặng! Anh bóp cổ cho tui chết, để âm mưu của người Đức không thành. Tám Chu, anh bỏ tay ra, bóp chết tui cầm bằng bóp chết danh tiết tui.
Anh chẳng biết, tui phất cờ chống Đức mới thành công một nửa, nếu như
tui nửa đường bỏ dở, chẳng hóa ra đầu voi đuôi chuột, có thủy vô chung!
Tui ước mong ruổi ngựa hát Miêu Xoang, phải sống huy hoàng, chết phải
chết bi tráng! Tui những muốn oai phong trên đài cao năm trượng, để bà
con hương thân thức tỉnh, để giặc Tây bạt vía kinh hồn! Lúc nguy khó tui ló cái khôn: hai tay móc mắt, đầu gối thúc bụng Tám Chu. Tui thấy có gì âm ấm vương trên mặt. Tám Chu rã rời tay, cổ tui được giải phóng!
Dưới ánh trăng, tui thấy rất nhiều quan binh đứng xung quanh tui và Tám Chu. Mặt chúng nặng trịch y hệt bong bóng lợn. có mấy cái mặt – bong – bóng
lợn cúi xuống, tay tui bị tóm, người bị xách lên theo. Mắt tui đã trở
lại bình thường, tui trông thấy chủ Cái bang Tám Chu, bạn nối khố của
tui, người lật nghiêng run như cái sàng đang sàng gạo. Trên đầu anh chảy ra một chất màu lam, mùi tanh nồng. Lúc này tui mới hiểu vì sao anh
buông tui ra: không phải do tui phản kháng, mà anh bị bắn một phát đạn
vào đầu.
Một tốp lính tiền hô hậu ủng kèm tui đi, qua Nghi môn,
qua lầu Giới Thạch, dừng lại ở Nguyệt đài trước sảnh đường. Ngẩng đầu
lên, tui thấy sảng đường, mênh mông, đèn đuốc sáng trưng. Đèn lồng ghi
rõ chức danh Viên Thế Khải, treo chính giữa mái hiên, đèn lồng của sảng
đường Cao Mật dạt sang hai bên. Bọn lính kèm tui vào trong sảnh, bắt tui quì trên phiến đá xưng tội. Tui lồm cồm đứng dậy, chân run người lảo