
nữ Sơn Âm, toàn thân tràn ngập phong độ thanh nhã của
người trí thức, bọn họ càng không muốn để nàng dính chút hơi thở trần
thế khói lửa.
Nhưng khi gả cho Lục Du rồi nàng mới hiểu ra, thì ra chỉ biết ca từ
thi phú mà không biết quản gia đối với con gái chưa chồng thì chẳng là
chuyện to tát gì, nhưng đối với người làm vợ làm con dâu thì lại là
khuyết điểm nguy hiểm. Mẹ chồng trước của nàng là Đường phu nhân thống
hận nhất ngoại trừ cho rằng nàng và Lục Du vợ chồng ân ái khiến hắn sa
vào ôn hương nhuyễn ngọc không chí tiến thủ ra, còn vì nàng tài hoa hơn
người, tinh thông kinh-sử-tử-tập*, nhưng không biết quản gia.
*Cách phân loại sách vở thời xưa : Kinh điển – Lịch sử – Chư tử – Văn tập
Về phần cái gọi là tội danh “không thể sinh con” trong thư bỏ vợ — Đường Uyển cười lạnh, Đường phu nhân lúc vừa vào nhà họ Lục đâu phải có bầu ngay, khi bà ta sinh Lục Du ra thì bà ta đã
ba mươi bốn tuổi, gả cho Lục Tể hơn mười năm. Tuy rằng nghe nói trước
khi có Lục Du bà ta từng mang bầu, nhưng không thể giữ thai vì đủ loại
nguyên nhân. Quan trọng là, dù có nói thế nào đi chăng nữa, mẹ chồng hơn ba mươi tuổi mới nối dõi tông đường cho nhà họ Lục như bà ta thật sự
không có lý do gì ghét bỏ con dâu mới cưới vào một năm mà chưa có con,
chẳng qua bà ta cần một cái cớ quang minh chính đại đuổi nàng ra cửa.
Đương nhiên, có lẽ nàng thật sự không thể sinh con, Đường Uyển không
lo lắng, kiếp trước đến tận lúc chết nàng vẫn chưa từng có con, nhưng
chuyện đó ngoài nàng ra có ai biết nữa đâu?
“Tam nương, sao bỗng nhiên con…”. Hồ phu nhân cau mày nhìn
Đường Uyển, trong ánh mắt bà ngoại trừ nghi ngờ ra, đa phần là tò mò, bà không hiểu con gái chịu kích thích quá mạnh hay đúng như lời con nói
khi vừa tỉnh dậy ngày hôm qua : trong lúc sống chết giao tranh bỗng hiểu ra toàn bộ, chỉ là bà biết rõ bản tính con mình, bà không tin một người trải qua chuyện đó xong sẽ hoàn toàn thay đổi.
“Mẹ nhất định thấy kỳ quái vì sao con lại muốn vậy”. Đường
Uyển nhìn mẹ, nàng biết mẹ nhất định sẽ như vậy, sẽ kinh ngạc vì sự thay đổi của nàng, dù sao thay đổi như vậy cũng hơi quá sức, nàng cười thản
nhiên, nói. “Thật ra con gái vẫn không có hứng thú gì với việc quản
gia, nhưng con muốn tìm chút việc để làm, tránh cho bản thân cả ngày rỗi rảnh nghĩ đông nghĩ tây, như vậy quá hao tổn tinh thần”.
Đây là nguyên nhân đầu tiên Đường Uyển muốn đi theo Hồ phu nhân học
quản gia, nàng hy vọng mình có việc để làm, bản thân luôn vây trong
trạng thái bận rộn, không cho nàng có thời gian suy nghĩ miên man.
Hồ phu nhân lập tức tin, coi như một trong những thói quen nhỏ Đường
Uyển không muốn người ngoài biết, thay vì luôn suy nghĩ lung tung, nàng
cố gắng tìm việc làm, để mình lu bù trong công việc, bớt suy nghĩ những
chuyện không vui. Nghĩ đến con gái học quản gia vì trốn tránh vết thương lòng, Hồ phu nhân lại ảm đạm và thương tâm một lúc, bà cố gắng tươi
cười nhìn Đường Uyển, nói. “Con không phải thích nhất đánh đàn, vẽ
tranh sao? Mỗi lần đánh đàn, vẽ tranh, có phiền não thương tâm khổ sở
đến đâu con đều có thể ném ra sau đầu, không nhất thiết phải miễn cưỡng
theo mẹ học quản gia”.
“Mẹ, con gái không muốn lại chôn thân trong cầm kỳ thi họa, không đụng vào gì khác”. Đường Uyển lắc đầu, cười khổ. “Con nhớ Đường phu nhân từng nói, nữ tử không tài là đức, phụ nữ chỉ
biết đánh đàn vẽ tranh, phong hoa tuyết nguyệt, không phải bản thân
người ấy không chịu đựng được, mà không có mẹ chồng nào chịu đựng được,
trừ phi mẹ chồng cô ta chết sớm, nếu không chung quy trốn không thoát
kết cục bị chồng ruồng bỏ”.
“Mụ tú bà đó nói chuyện luôn chanh chua, con nghe lời bà ta làm gì?”. Hồ phu nhân “xí” một tiếng khinh miệt, mắng. “Tam nương nhà chúng ta là tài nữ số một số hai Sơn Âm, Lục Vụ Quan nhà bà
ta mười hai tuổi có thơ văn truyền lưu hậu thế, nhưng tam nương nhà
chúng ta có kém gì? Nhà họ Lục hắn trước khi cầu thân đã biết, làm sao
dám mặt dày mở miệng nói câu đó”.
“Con gái cũng biết đó chẳng qua là cái cớ bà ta tìm để răn dạy con thôi, nhưng con…”. Đường Uyển âu sầu, tất nhiên nàng hiểu Đường phu nhân bới móc, nàng
cũng không thật để bụng, hôm nay nhắc đến chuyện này vì nàng muốn đạt
được mục đích của mình, nàng nhìn Hồ phu nhân. “Mẹ, con gái về sau
không muốn nhắc tới cầm kỳ thi họa, kinh-sử-tử-tập, con chỉ muốn làm một phụ nữ bình thường, không viết thơ ca gì nữa”.
Trước kia nàng yêu nhất là thơ, không thể tưởng tượng ra nếu không có thơ làm bạn sẽ cô đơn cỡ nào, nhưng hiện tại, có nơi nào cô đơn hơn âm
phủ ư? Giờ đây, nàng chỉ có cảm giác mâu thuẫn và chán ghét thơ.
Nàng vẫn nhớ bài thơ Cây trâm phượng viết trên tường ở vườn
Thẩm khiến người đời chế giễu, nói nàng còn lưu luyến chồng trước, chê
cười Tử Quy bất tài, làm Tử Quy không thể giải thích cho cha mẹ, còn có
những bài thơ Lục Du làm khi tuổi già quay về Sơn Âm đi thăm vườn Thẩm
nhung nhớ nàng, lần nào đi cũng viết, một khi viết thì phải khoe khoang
ra, từng chữ từng câu xanh xanh đỏ đỏ tố khổ hết nỗi tưởng niệm của hắn, tỏ lòng trung trinh như một với nàng.
Kiếp trước