
đạp xe đến cổng trường trung học Nam
Trì. Dì Trương bảo vệ biết tôi, biết em trai tôi, càng biết ba tôi. Ba
tôi vốn là giáo viên ở trường trung học Nam Trì, do sinh vượt kế hoạch
nên bị giáng chức, bị chuyển sang trường trung học cấp thấp hơn ở thị
trấn nhỏ. Dì Trương giơ tay ngoắc tôi ra "Tiểu Thu, nghỉ hè về đây chơi
hả?"
"Dạ, họp lớp."
"Nghe nói thầy Tạ..." Dì sờ mặt tôi "Haiz, người đang sống sờ sờ ra đó, sao nói đi là đi."
Dì Trương không nhắc thì thôi, vừa nhắc tới ba, nước mắt tôi liền trào ra. Tôi cúi đầu, nước mắt rơi xuống mặt đất.
"Haiz, tại dì không tốt, khi không nhắc lại chuyện buồn làm chi không biết." Dì kéo tay tôi, nhét vào tay tôi một trái táo.
Tôi đứng trước cổng trường, vừa ăn táo, vừa chờ bạn học.
Một lát sau, bỗng nhiên dì Trương nói: "Đúng rồi, mấy năm trước, có
một người tới trường tìm con, dì có cho cậu ta địa chỉ nhà con, cậu ta
có tìm được con không?"
Tay tôi run run, hỏi: "Ai tìm con? Dì còn nhớ người đó như thế nào không?"
"Sao không nhớ được. Cậu thanh niên đó rất đẹp trai, vừa tới trường
là mấy cô giáo trẻ mê ngay. Tuy nhiên, chân cậu ta có tật sao đó, đi hơi cà nhắc."
Tôi cố gắng bình tĩnh, hỏi tiếp: "Dì còn nhớ lúc đó là khi nào không?"
"Ừm, khoảng ba năm trước, trước Tết, lúc đó trường nghỉ đông rồi. Cậu ta hỏi có chỗ nào bán đồ lưu niệm của trường Nam Trì không. Dì nói, cậu tưởng đây là Cố Cung ở Bắc Kinh hả, đồ lưu niệm cái gì. Chỉ có một tiệm văn phòng phẩm ở cổng thôi, bán mấy thứ tập, viết linh tinh. Sau đó,
cậu ta còn hỏi dì, đường trước cổng trường có phải tên Tây Môn không?
Đúng là không nên kể chuyện buồn với người đang buồn, nước mắt tôi tuôn ra như suối.
Thì ra, Lịch Xuyên đã từng đến đây, quê tôi.
"Cậu ta hỏi dì có biết con không? Dì nói, sao không biết được. Cả nhà con, có ai dì không biết. Tiểu Thu từ lúc học tiểu học đã quậy, thường
xuyên bị cô giáo phạt đứng. Không ngờ học càng ngày càng giỏi, trở thành trạng nguyên ở đây." Dì Trương cứ tưởng tôi vẫn buồn chuyện ba tôi, nên lái sang chuyện vui vẻ.
Tôi lau nước mắt, cười với dì: "Anh ấy là bạn con, từ Bắc Kinh tới chơi."
"Chắc nghe mấy chuyện dì kể làm cậu ấy vui. Lúc đó, cháu nội dì đang
bò trên sàn, cậu ấy cho nó 300 tệ, nói là để mua kẹo cho nó ăn." Bởi
vậy, dì vẫn còn nhớ rõ Lịch Xuyên.
Đoạn đối thoại bất ngờ này làm sống dậy bao tâm tư trong lòng tôi.
Tối đó, suốt buổi liên hoan, tôi không nói câu nào. Chỉ biết uống rượu,
uống say mèm. Lúc tỉnh lại, tôi phát hiện mình đang ngủ trên một bãi nôn mửa. Lịch Xuyên bỏ tôi, đã ba năm rồi. Sao tôi vẫn nhớ anh. Sao tôi còn gửi thư cho anh, kẻ sáng mắt đều biết là do tôi cố chấp. Tôi đúng là
vừa khờ vừa ngu, hết thuốc chữa rồi.
Muốn yêu một người, không có cơ hội; muốn hận một người, không có lí do.
Muốn chạy trốn, không có chỗ trốn; muốn sa đoạ, không có can đảm.
Không ngờ tôi vẫn là sinh viên giỏi.
Sau khi ba tôi qua đời, thể xác và tinh thần tôi đều suy sụp, suốt ba tháng trời tôi không viết thư cho Lịch Xuyên. Về lại trường, kiềm chế
không được, tôi lại ra tiệm net. Trong hộp thư vẫn báo con số 0. Do đó
tôi lại viết một email ngắn: "Hi Lịch Xuyên. Ba em mất rồi. Em mượn anh
250 ngàn để làm phẫu thuật cho ba. Khi nào đi làm, em trả lại anh liền.
Có lẽ từ lâu anh không sử dụng hộp mail này nữa. Nhưng em vẫn muốn nói,
cảm ơn anh đã giúp đỡ em vào những lúc khó khăn thế này. Em rất cảm
kích. Tiểu Thu."
Vào một ngày cuối tuần sau khi gửi lá thư đó, tôi nhận được một cuộc
điện thoại của giáo viên hướng dẫn - Giáo sư Phùng. Ông nói có một lá
thứ gởi cho tôi, ngoài bìa thư ghi địa chỉ là "Văn phòng khoa Ngữ Văn
Anh Đại học Sư Phạm S", do đó, thư được chuyển về văn phòng khoa. Thầy
biết tôi, nên nhận thay. Thầy hỏi tôi khi nào có thể tới văn phòng của
thầy lấy thư.
Tôi hơi sợ gặp thầy Phùng, nguyên nhân là do ông đặc biệt thích tôi.
Nhiều lần ám chỉ tôi nên học lên tiến sĩ, ông sẽ hướng dẫn tiếp. Nhưng
tôi đã chán học, nên tính thầm nhanh nhanh lấy xong bằng thạc sĩ, tốt
nghiệp rồi tìm việc làm.
Lịch Xuyên có thể nói tiếng Trung rất lưu loát, cũng biết rất nhiều
chữ Hán. Nhưng anh nói, thật ra anh không biết viết chữ Hán lắm, vì ông
nội anh dạy viết chữ phồn thể, anh ghét chữ phồn thể quá nhiều nét, quá
phức tạp, không chịu học. Cho nên, tôi chưa bao giờ thấy anh viết chữ
Hán. Quả nhiên, ngoài bì thư được viết chữ phồn thể, chữ viết không đẹp
lắm, may mà đủ nét, lớn nhỏ vừa phải, cho nên cũng không quá khó đọc.
Tuy ngoài phong bì không ghi địa chỉ gửi, nhưng tem là tem Thuỵ Sĩ.
Tôi ôm hy vọng tràn đầy mở thư, thấy bên trong có một tấm thiệp khá đẹp, thoảng mùi hoa oải hương, nền thiệp màu tím nhạt, ở giữa có một bó hoa
huệ tây trắng muốt. Không có chữ nào, không có ký tên. Không có gì hết.
Như vậy, tất cả email của tôi, anh đều nhận được.
Tôi cầm tấm thiệp, lòng chùng xuống. Cô thư ký văn phòng khoa cười
hỏi: "Tiểu Thu, em có sưu tập tem không? Em có lấy con tem này không?"
Tôi còn đắm chìm trong suy tư: "Hả, gì ạ? Tem?"
"Đúng vậy. Con cô sưu tập tem. Con nít chưa hiểu chuyện, chỉ thích đồ ngoại thôi."