
“Tôi tự xem Địa chí quận Vĩnh Gia cũng được, tôi có từ điển Kim Sơn rồi.”
Tôi cười lạnh: “Địa chí quận Vĩnh Gia viết bằng thể cổ văn, cổ văn thời Đạo Quang[3'>, anh đọc có hiểu không?”
[3'> Thời Đạo Quang (1821 – 1850) là thời kỳ hoàng đế Đạo Quang (1782 – 1850) nhà Thanh trị vì.
Thật ra, tôi cũng không biết cổ văn thời Đạo Quang và cổ văn thời Càn Long khác nhau chỗ nào. Chỉ muốn lừa anh thôi mà.
Anh đưa tay nâng người dậy, ngồi thẳng trên giường, nói: “Xem ra, đọc cổ văn thời Đạo Quang chỉ là chuyện nhỏ với em. Đã như vậy, em có thể
dịch nhanh hơn được không? Đưa bản dịch cho tôi trước ba giờ chiều ngày
mai. Nếu đưa trễ thì đừng trách tôi complain[4'> với Tổng Giám đốc
Vương.”
[4'> Than phiền.
Dứt lời, anh xốc chăn lên, đưa cái chân duy nhất xuống tìm dép lê
trên thảm. Sau đó, cúi người xuống, định nhặt gậy chống trên thảm lên.
Tôi nhìn anh, đột nhiên nhớ lại cạnh tượng anh mở tủ lấy sửa vào đêm nào đó nhiều năm trước. Tim bỗng nhói đau.
Vội giành lấy gậy đưa cho anh.
Anh đứng dậy, anh đang mặc quần áo tập yoga màu đen. Có thể nhìn ra
hành động của anh hơi chậm chạp, hồ như vẫn đang cắn răng chịu đau. Anh
cùng tôi ra cửa, mở cửa giúp tôi. Anh cúi đầu, tôi ngẩng đầu, trán tôi
chạm vào cằm anh. Tôi vội vàng quay đầu sang một bên.
Anh nói: “Em về đi.”
Tôi đang định đi, bỗng nhiên nhớ ra một việc: “Đúng rồi, từ điển của tôi đâu? Trả từ điển lại cho tôi.”
Anh vào phòng, lấy quyển từ điển Viễn Đông ra quăng vào tay tôi. Nếu
như nói, lúc anh mở cửa cho tôi có chút khách sáo, thì lúc quăng từ điển cho tôi là không khách sáo chút nào.
Trang đầu tiên của quyển từ điển có một cái kẹp sách bằng ngà voi. Là do ba tôi tặng. Nhưng giờ lại không thấy.
Tôi trợn mắt nhìn anh, đang tính hoạnh họe. Anh nói: “Ở phía sau. Tối qua tôi có tra mấy từ.”
“Cái gì ở phía sau?”
“Kẹp sách của em.”
Tôi giận không chỉ vì nguyên nhân này: “Trang đầu tiên đâu? Mất tiêu rồi?”
“Xé rồi.”
“Tại sao?”
“Em nói thử xem?”
Tôi quay đầu bỏ đi.
Cuốn Địa chí quận Vĩnh Gia không dày lắm. Hơn nữa, với nền tảng hai
tháng tôi luyện ở Cửu Thông, cộng với việc Lịch Xuyên chỉ muốn xem nội
dung chính về văn hóa và địa lý, tôi liền hút thuốc, uống trà, uống cà
phê, dịch suốt đêm không ngủ không nghỉ, đến 10 giờ sáng hôm sau đã xong cơ bản. Tuy chưa trau chuốt câu chữ, nhưng chắc chắn không có sai sót.
Tiếp theo tôi trau chuốt bản dịch hết 3 tiếng, sau đó, thấy biểu tượng
MSN của Lịch Xuyên ở CGP sáng đèn, bèn chuyển file word qua cho anh.
Lát sau, anh trả lời: “Thanks. Could I also have a hard copy?[5'>”
[5'> Cảm ơn. Em in giúp tôi một bản được không?
Tôi trả lời lại bằng tiếng Anh: “Don’t you have a printer in your office?[6'>”
[6'> Không phải phòng anh cũng có máy in à?
Nửa tiếng sau, điện thoại ở đầu giường reo.
“Annie, phiền em qua chỗ tôi một chút!”
Tôi chạy vội đến phòng anh. Bây giờ anh không ngồi trên giường nữa,
mà chuyển sang ngồi trên xe lăn. Anh đang cầm bản dịch của tôi trong
tay. Anh bảo tôi ngồi xuống, tôi đành ngồi xuống cái ghế sô pha màu
trắng. Mảng đỏ ngày hôm kia vẫn còn đó, đập thẳng vào mắt tôi.
“Tạ Linh Vận[7'> là ai?”
[7'> Tạ Linh Vận (385 – 433): một nhà thơ, nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Hán và Lưu Tống. Tạ Linh Vận từng nhậm chức Thái thú Vĩnh Gia (nay là Ôn Châu).
“Là nhà thơ lớn thời Đông Tấn[8'>.”
[8'> Đông Tấn (317 – 420): từ năm 420 Đông Hán sụp đổ và buộc phải nhường ngôi lại cho Lưu Tống (thời kỳ Nam Bắc Triều).
Từ “Đông Tấn” chắc không quá xa lạ đối với người Trung Quốc đâu.
“Anh có biết Đào Uyên Minh[9'> là ai không?”
[9'> Đào Uyên Minh (365 – 427): là một trong những nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của Trung Quốc trong lịch sử.
“Không rõ lắm.”
“Tạ Linh Vận và Đào Uyên Minh, là người sáng lập phong cách thơ sơn thủy điền viên của Trung Quốc.”
“Tôi hỏi Tạ Linh Vận, em nói Đào Uyên Minh làm gì?”
“Họ đều là người thời Đông Tấn.”
“Thời Đông Tấn là thời nào?”
Bó tay! Bực mình! Vương Lịch Xuyên, tôi đánh giá trình độ tiếng Trung của anh quá cao rồi!
Tôi giảng giải lịch sử Đông Tấn cho người này nghe hết 15 phút.
“Bây giờ anh hiểu chưa?”
“Hiểu rồi.” Thái độ thành thật “Nói vậy, Tạ Linh Vận từng ở Ôn Châu, tức là Vĩnh Gia thời đó.”
“Ông ấy là Thái thú quận Vĩnh Gia.”
“Hai câu Pond and pool grows with grasses of spring; Garden willows
very the birds that there sing, là hai câu thơ để đời của Tạ Linh Vận
hả?”
“Ừ, nguyên văn tiếng Trung là “Trì đường sinh xuân thảo, viên liễu biến minh cầm.”[10'>”
[10'> Bờ ao mọc cỏ nõn, vườn liễu hóa chim kêu.
“Tôi đâu thấy hay gì đâu.” Anh nói “Hoặc là, tại em dịch dở. Em nói
nghe thử, hai câu “Hồ nước sinh xuân thảo, viên liễu biến minh cầm” hay ở chỗ nào?”
“Tạ Linh Vận bị biếm chức về Vĩnh Gia, tâm trạng không vui, nằm liệt
giường suốt cả mùa đông. Một hôm, ông ấy vén rèm cửa sổ lên, chợt thấy
bờ ao bên ngoài đã lên đầy cỏ xuân, cây liễu trong vườn cũng đang ra
lộc, chim chóc thì hót líu lo. Sự ảm đạm chán nản của mùa đông cũng theo đó tan theo mây khói.”
Thấy anh có vẻ chưa hiểu, tôi lại giải thích bằng tiếng Anh.
“Anh có hiểu không?”
“Tôi