
và Tô Mạt, Phan Tổng dẫn vợ và con gái cùng lên chùa bái Phật.
Gặp Tô Mạt, Phan Tổng trò chuyện tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Triệu Tường Khánh cười, nói: “Tất cả nhờ Tô Mạt, vị trụ trì gặp cô ấy liền
nói cô ấy có duyên với Phật. Nhờ cô ấy nên chúng tôi cũng được thơm
lây”.
Phan Tổng nhìn Tô Mạt bằng ánh mắt ngưỡng mộ.
Tiểu hòa thượng đưa mọi người vào nội đường. Sư trụ trì ngồi hóng mát trên ghế mây dưới giếng trời, tay cầm quyển kinh Phật.
Tô Mạt không yên tâm, tiến lên phía trước, nói nhỏ với sư trụ trì: “Sư ông cứ nói với bọn họ vài câu tốt đẹp là được, không cần hao tổn tâm trí,
sư ông tránh đừng để mệt mỏi quá”.
Hòa thượng già lên tiếng: “Người xuất gia không thể nói dối, có sao ta sẽ nói vậy”.
Tô Mạt nói: “Vậy hai mươi năm trước sư ông xem bói cho con, chắc sư ông không phải có sao nói vậy chứ?”
Hòa thượng già ngẫm nghĩ một hồi: “Cháu gái nhà họ Tô, lúc đó ta đã nhìn ra cuộc hôn nhân đầu của cháu không quá ba thu, ta đã dùng ngón tay giơ số ba, lẽ nào bố mẹ cháu không hiểu?”
Nghe câu này, Tô Mạt hết sức ngạc nhiên. Cô thầm nghĩ: thảo nào sau này bố
mình thường nói, vị hòa thượng giơ động tác tay ok với ông.
Sư trụ trì không nhiều lời, đưa mắt quan sát mọi người. Thấy ông già yếu
bệnh tật nhưng ánh mắt vẫn tinh anh, mọi người không dám xem thường, để
mặc ông nhìn đi nhìn lại. Sau đó, hòa thượng già mỉm cười, chỉ tay vào
Triệu Tường Khánh. “Người này tướng mạo có phúc”.
Triệu Tường Khánh rất mừng rỡ. Nhưng trước mặt sếp tổng, anh ta không tiện tỏ thái độ quá lộ liễu, chỉ nói: “Ôi giời, lão thần tiên, tôi chỉ làm thuê cho người khác, sắp bốn mươi mà vẫn chưa kiếm được vợ. Tôi còn đang nản lòng đây này”.
Hòa thượng già đáp: “Vạn sự không cần vội vàng, thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng”.
Tô Mạt ở bên cạnh không kìm được, khẽ ho một tiếng, hòa thượng già mới đưa mắt về phía gia đình Phan Tổng, phất tay. “Tướng mạo của ba thí chủ này cũng có phúc”.
Nghe ông nói vậy, gia đình Phan Tổng đều cười ngoác miệng. Cuối cùng, sư trụ trì nhìn Vương Cư An, vẻ mặt hết sức nghiêm túc: “Thí chủ vào đây, tôi
xem cho thí chủ trước”.
Phan Tổng ở bên cạnh cất giọng khách khí: “Vương Tổng, mời anh xem trước, đây cũng là duyên phận”.
Vương Cư An không tin mấy trò bói toán nhưng nhìn thấy vẻ kiên quyết của sư trụ trì, anh ta đành làm theo lời ông.
Hòa thượng già đưa Vương Cư An vào phòng, lại gọi Tô Mạt vào mài mực.
Vương Cư An quan sát xung quanh. Đây là căn phòng cũ kĩ, trên giường mắc màn
màu xanh, bên tường là một đống sách, trong đó có vô số kinh thư. Vị trí phía nam đặt một bàn thờ, trên đặt tượng Bồ Tát bằng sứ, lư hương bằng
gốm, ba đĩa hoa quả. Giữa căn phòng có một chiếc bàn vuông cũ. Trên bàn
xếp một hàng văn phòng tứ bảo (1).
(1). Văn phòng tứ bảo gồm bút, mực, giấy, nghiên.
Hòa thượng già quan sát Vương Cư An một lúc, lắc đầu. “Đầy vẻ tà ác”. Ông
hỏi ngày sinh tháng đẻ của anh ta, bảo Tô Mạt viết ra giấy, sau đó đối
chiếu. Ông ta lại rút từ đống sách một cuốn sách cũ nát, xem đi xem lại, tính tính toán toán, thần sắc hơi kỳ lạ.
Vương Cư An mất hết kiên nhẫn nhưng vẫn không tỏ thái độ, chỉ nói: “Sư phụ, có gì ông cứ nói thẳng, tôi nghe là được chứ gì!”
Hòa thượng già lẩm bẩm: “Chỉ sợ thí chủ không hiểu. Con người này, con
người này không sang cũng giàu, một đời chìm nổi, nếu không làm thương
nhân cũng là đạo tặng”. Ngừng vài giây, ông cất giọng nghiêm túc: “Tôi
thấy thí chủ cũng có huệ căn (l), có muốn xuất gia làm hòa thượng không?”.
(l) Huệ căn: trong phật giáo chỉ những người có tư chất có thể lĩnh hội Phật lý một cách thấu đáo.
Vương Cư An hơi ngây người, sau đó bật cười, trong đầu thầm nghĩ: vị hòa
thượng già này suốt ngày ru rú ở chùa, không hiểu sự đời và nhân tình
thế thái. Anh ta cố tình pha trò: “Sư phụ, có câu nói một đời trôi nhanh như bóng câu qua khe cửa. Nếu không vui chơi thỏa thích, đến lúc già
chỉ còn nước đau lòng. Tôi thấy thần sắc của sư phụ đau khổ, chứng tỏ
lòng trần chưa hết, sư phụ có muốn nuôi tóc hoàn tục không?”.
Sư trụ trì thở dài, lẩm nhẩm: “Chúng nhân duyên sinh pháp, ngã thuyết tức
thị Không, dị vi thị giả danh, dịch thị trung đạo nghĩa (2)...”
Hòa thượng vừa niệm vừa vuốt râu, sau đó nói với Vương Cư An: “Còn một
câu cổ xưa, nói ra sợ khiến thí chủ chán ghét, chê cười: “Gieo nhân
thiện sẽ được quả thiện”. Thí chủ, thí chủ hãy về đi”.
(2) “chúng nhân duyên sinh pháp, ngã thuyết tức thị Không, dị vi thị giả danh,
dịch thị trung đạo nghĩa” là câu trong Trung quán luận của Bồ Tát Long
Thọ. Có nghĩa: các pháp do duyên sinh, tôi nói đó là Không, cũng gọi là
giả danh, cũng chính là trung đạo nghĩa.
Tiếp theo, sư trụ trì mời gia đình Phan Tổng vào phòng, vẫn là Tô Mạt mài
mực viết chữ. Hòa thượng già không xem kĩ như vừa rồi, quả nhiên chỉ
chọn mấy câu tốt lành tặng bọn họ. Phan Tổng vô cùng cảm kích, nói sẽ
cúng thêm nhiều tiền. Trước khi ra về, cả nhà còn khấu đầu quỳ lạy trước Bồ Tát.
Đợi khách đi hết, Tô Mạt cũng vái ba vái, cảm ơn sư trụ trì, đồng thời nhắc ông chú ý giữ gìn sức khỏe. Cô cố kìm nén