
ôi. Hồng Nguyệt Nhi nhận lấy đưa cho tôi, tôi
mở ra chẳng nhìn thấy tên ai cả, chỉ có chữ bông lau.
Chung Bình vạch tấm vải mỏng trên thứ đồ ôm trong ngực, hóa
ra là một nhành hồng mai cắm trong bình sứ trắng, màu trắng hòa quyện với màu đỏ,
cực kì tươi đẹp.
Cậu ta giao bình hoa cho Hồng Nguyệt Nhi, nói: "Gia tiểu
nhân nói, hoa mai trong phủ đã nở, mời cô nương sáng mai đến thưởng thức."
Tôi gật gật đầu nhìn Hồng Nguyệt Nhi, cô liền bê bình hoa tới
đặt trên án thư bên cửa sổ. Tôi cất kỹ tờ giấy, nói với Chung Bình: "Ngươi
cứ trở về đi. Giúp ta cảm ơn nhã ý của chủ tử nhà ngươi."
"Vậy sáng mai..."Cậu ta thăm dò hỏi.
Tôi xen vào: "Ngươi trở về nói ta đã biết."
Có thế cậu ta mới vui vẻ hành lễ lui ra ngoài.
Hồng Nguyệt Nhi cười nói: "Hoa này thật là đẹp mắt.
Không biết là vị kia có ý gì?"
Tôi cười không đáp. Ài, buông xuống lâu như vậy, còn tưởng
anh ta đã quên, tôi lại quên nhanh như vậy.<>
Buổi chiều ngày hôm sau, vẫn là tiểu tử Chung Bình lanh lợi
đến đón. Ngồi xe ngựa vào phủ, sau đó cậu ta dẫn đến sân nhỏ phía trong. Chung
Bình xốc vải rèm thật dày ở nhà chính, đợi tôi bước vào cửa lại buông rèm lui
xuống.
Tôi vòng qua bức bình phong vẽ tuyết rơi trên khóm trúc bằng
mực tàu, trông thấy lão Tứ cúi người đứng trước bàn sách, trong tay còn cầm
bút. Anh ta nhìn thấy tôi liền đặt bút xuống, vẫy tay gọi tôi đi qua.
Tôi đến trước bàn, cúi đầu nhìn chữ anh ta viết, khẽ đọc
thành tiếng: "Ta bỉ quan lại giả, kì chức xưng trường dân, y thực bất tàm
canh, sở học nghĩa dữ nhân. Nhân đương dưỡng nhân nghĩa thích nghi, ngôn khả
văn đạt lực khả thi. Thượng bất năng khoan quốc gia chi lợi, hạ bất năng bão
nhĩ chi cơ. Ngã ẩm tửu, nhĩ thực tao, nghĩ tuy bất ngã trách, ngã trách hà do
đào." (đại khái là ý nói về thực trạng quan lại mục rửa thời đó). Chữ rất
đẹp, nhưng lấy trình độ của tôi thì vẫn không nhìn ra đẹp chỗ nào. Còn về bài
thơ thì thôi, mặc dù có cảm xúc, nhưng không giống như là anh ta làm, vì thế
tôi hỏi: "Thơ ai vậy?"
Anh ta điểm lên trán tôi, cười nói: "Kém cỏi. ‘Thực tao
dân’ của Âu Dương Tu cũng không biết."
Tôi nói: "Đúng vậy, tôi không biết một chữ nào cả."
"Nói hưu nói vượn!" Anh ta cười khiển trách, sau
đó lại hỏi, "Ở nhà trước kia không tập viết theo mẫu chữ sao?"
"Không." Tôi chẳng bao giờ tĩnh tâm được.
Anh ta liền nhét bút vào tay tôi: "Lại đây, viết vài chữ
thử xem?"
"Hay là thôi đi, tôi không viết tốt được như
ngài." Tôi phản đối loại chuyện mất thể diện này.
Anh ta không cho phép tôi cự tuyệt, một tay ôm lấy tôi, một
tay nắm lấy tay cầm bút của tôi, hỏi: "Nàng thích câu của ai?"
Tôi thở dài, đáp: "Bạch Cư Dị đi." Dễ biết.
Anh ta suy nghĩ một lát liền cầm tay tôi viết hai hàng chữ:
"Xuân phong đào lí hoa khai dạ, thu vũ ngô đồng diệp lạc thời." Rốt
cuộc là tính tôi viết hay là anh ta viết đây?
Tôi tránh khỏi anh ta nói: "Tự tôi viết là được rồi."
Anh ta liền buông tay ra.
Tôi lấy bút chấm chấm mực trên nghiên, viết hai câu ở chỗ trống:
" Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền
cành." Anh ta mỉm cười ngưng mắt nhìn tôi, tôi cười với anh ta, tiếp tục bổ
sung hai câu sau: "Thiên trường địa cửu có lúc tận, thử hận miên miên vô
tuyệt kì."
"Nàng!" Anh ta nhìn thấy liền trừng mắt nhìn tôi.
"Là ngài tự chọn bài này mà." Bạch Cư Dị nhiều thơ
như vậy, người nào đó lại khiến anh ta cố tình chọn bài bi thảm đến vậy? Tôi
nói: "Mặc kệ ý nghĩa thế nào, không phải chỉ nhìn chữ thôi sao? Cứ bàn về
chữ là được rồi."
Giọng điệu anh ta cứng đờ, nói: "Vậy thì nói về chữ, vô
cùng thê thảm, cực kì gay go."
Tôi bất mãn nói: "Dùng từ khắc nghiệt vậy sao? Tốt xấu
gì ngài cũng phải nhẫn nhịn một chút, đưa ra lời bình an ủi một chút, tỷ như
'nét chữ cứng cáp' cũng được.
Anh ta nhíu mày nói: "Tay nàng phá nét chữ, còn muốn ta
nói gì nữa chứ? Trở về phải nghiêm chỉnh bắt chước bản mẫu của các danh gia mới
tốt."
Tôi vội xua tay nói: "Tứ gia ngài tha cho tôi đi!"
Anh ta vừa nghe lại không nhịn được bật cười, nhìn tôi nói:
"Đừng gọi Tứ gia Tứ gia nữa, nghe khó chịu lắm."
Không phải người ta đều gọi thế sao? Tôi cau mày hỏi:
"Vậy gọi là gì?"
"Gọi tên."
Tôi ngớ người một lát, sau đó ngẩng đầu hỏi: "Ngài tên
gì?"
Anh ta không nói một lời nhìn chòng chọc tôi cả buổi, cuối
cùng lấy một tờ giấy mới, viết lên hai chữ "Dận Chân", đưa cho tôi.
Tôi hỏi: "Đọc thế nào?" Anh ta liền đọc một lần
cho tôi nghe.
Nếu đã hỏi một người, không bằng hỏi luôn tất cả, vì thế lại
hỏi anh ta, lão Bát, lão Cửu, lão Thập, Thập Tam, Thập tứ tên là gì.
Anh ta viết từng tên một. Tôi cười nói: "Tôi thích nhất
tên của Thập Tam."
Anh ta hỏi: "Vì sao?"
"Bởi vì hai chữ này tôi biết." Tất cả những người
khác đều là chữ ít gặp. Tôi chỉ vào tên của Thập Tứ, nói: "Hóa ra Thập Tứ
tên là Dận Trinh."
Anh ta kéo tờ giấy ném vào chậu than.
Tôi cười nói: "Nói đến Thập Tứ, tôi cảm thấy gần đây
ngài ấy có điểm kì lạ."
"Mấy ngày nay Thập Tứ đệ liên tục có việc vui, đương
nhiên là không giống với mọi ngày."
"Hả? Việc vui gì?" Tôi tò mò hỏi.
Anh ta bình thản đáp