
diệt cả sơn trại. Trong tám mươi lăm người còn lại, trừ mấy tên đầu lĩnh cần
phải bắt sống đợi thẩm vấn ra, quá nửa là đàn bà và trẻ nhỏ.
Đinh
tướng quân tự mình đem người lên núi, lật tung cả cái Thần Thủy trại lên cũng
không tìm thấy quân lương bị mất. Chớ nói tới xe vận tiêu, mà ngay cả một cái
rương cũng chẳng thấy.
Tiểu
Sái đương nhiên không thừa nhận, Đinh tướng quân có cách của Đinh tướng quân.
Ông ta
chẳng nói nhiều, đem cực hình ra chiêu đãi.
Suốt
hai ngày nghiêm hình tra khảo, trên người Tiểu Sái đã không còn chỗ nào lành
lặn, nhưng gã vẫn nói không biết, thật sự không biết.
Đinh
tướng quân nổi cơn thịnh nộ.
Lão lôi
đứa con trái sáu tuổi của Tiểu Sái tới trước mặt hắn, đè bàn tay thằng bé lên
bàn.
“Nói!
Quân lương ở đâu?”
Đôi mắt
đỏ lừ của Tiểu Sái cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, nhưng vẫn cứ lắc đầu.
Đinh
tướng quân rút yêu đao, vung tay hạ đao. Ánh bạc loang loáng, ngón trỏ của đứa
bé đã bắn tung lên không trung, máu tươi bắn lên mặt, lên miệng Tiểu Sái.
“Oa…
cha ơi cứu con!!!”, đứa bé đau đớn giãy giụa, kêu khóc thảm thiết.
Gã liếm
sạch máu con mình, cúi thấp đầu, toàn thân run bần bật, nhưng vẫn không nói gì.
“Ngươi
nhận hay không?”, Đinh tướng quân híp mắt lại, mặt lộ sát khí.
“Tôi…
tôi thực không biết!”, giọng Tiểu Sái khàn đi bởi thống khổ, gã quỳ xuống đất,
mười ngón tay cào đến máu tươi ứa đầy.
Đao
quang lại loáng lên, một ngón tay nữa bị chặt xuống.
Gã
không còn dám nhìn mặt con, vội nhắm mắt lại.
Bản
thân Đinh tướng quân cũng có mấy đứa con trai, đương nhiên ông ta biết một
người cha trong tình cảnh này có cảm giác gì.
“Mọi
người nói ngươi là thiết hán. Ta muốn xem xem thiết hán nhà ngươi rốt cuộc cứng
rắn đến mức nào!”, hắn cười lạnh.
Tiểu
Sái quả nhiên vô cùng cứng đầu, gã vẫn không chịu thừa nhận.
Lúc
chặt tới ngón thứ ba, đứa nhỏ đã không còn sức khóc nữa, hai mắt trợn ngược,
đau quá mà ngất đi.
Đinh
tướng quân vẫn đè tay đứa bé, chẳng mảy may có ý định buông tha cho nó.
“Ngươi
có biết cách tốt nhất để cầm máu là gì không?”, lão cười nhạt, chỉ vào bàn tay
đầm đìa máu của đứa nhỏ: “Sắt nung. Dùng sắt nung đỏ đốt là máu sẽ ngừng chảy.
Người đâu…”.
“Đừng,
đừng! Tôi nhận! Tôi nhận! Xin ngày hãy tha cho nó đi!”
Tiểu
Sái sắt đá lúc này khuôn mặt đã đẫm lệ, cuối cùng cũng phải mềm ra rồi. Gã nói
gã đã nhờ một vị bằng hữu đáng tin đem quân lương giấu ở một chỗ tuyệt mật, đến
chính gã cũng chẳng biết là ở đâu. Vị bằng hữu kia lại hành tung bất định, muốn
tìm được cần có thời gian.
“Cần
bao nhiêu thời gian?”, Đinh tướng quân hỏi.
“Ít
nhất là một tháng.”
“Hạn
cho ngươi trong vòng mười ngày phải tìm được”, Đinh tướng quân âm trầm nói:
“Nếu không, ta xẻ con trai ngươi làm tám mảnh, đem toàn bộ tám mươi lăm người
này băm thành tương thịt”.
Lão phế
võ công của Tiểu Sái, cấp cho hắn một con ngựa rồi thả hắn ra. Sau đó sai người
chuyển lời cho quan địa phương: “Sau mười ngày nữa tới nhận quân lương”.
Quan
địa phương mừng ra mặt, tự mình tới cảm ơn, nói tướng quân ngài thật là thần
dũng vô địch, nhờ ngài tiện thể đem chín cái trại còn lại quét cho sạch luôn
đi.
Đinh
tướng quân thầm mắng trong lòng, bổn tướng quân lại do ngươi sai khiến sao?
Liền hừ lạnh một tiếng, kiêu căng nói: “Triều đình không có ý chỉ ấy”.
Ai ngờ
hai ngày sau có người bảo với ông ta, cái vị Tôn tri phủ này là cháu của Tôn
quý phi, ngàn vạn lần không thể đắc tội, đắc tội rồi, nửa đời còn lại của ông
ta xác định ở lại luôn tây bắc đi, chớ có mong quay về nữa.
Ông ta
hối hận, nhưng lời đã nói ra khó mà thu lại được. Cho nên khi Tôn tri phủ thông
báo Sơ An trấn trước mặt xuất hiện ôn dịch, cầu ông ta phái binh “chi viện”,
lão không dám cự tuyệt nữa.
“Cái
trấn ấy có bao nhiêu người?”, lão hỏi.
“Hơn
năm trăm người.”
“Chết
mất bao nhiêu rồi?”
“Hơn
hai trăm.”
“Hai
trăm bao nhiêu?”
“Không
rõ.”
“Không
rõ?”
“Ôn
dịch lan tràn cực nhanh. Có lẽ lúc tôi với ngài đang nói đây lại chết thêm mấy
người.”
“Hả?”
“Cái
trấn ấy ở không xa phía trước, cách thành Gia Khánh chỉ có hai chục dặm. Tôi đã
phái quân lính thắt chặt hai đầu ra vào trấn, người bên ngoài chắc chắn không
thể đi vào nhưng người trong ấy, bất luận có nhiễm bệnh hay chưa đều đang tìm
cách thoát ra ngoài… Cũng khó trách, trong trấn ấy toàn là nông bộ, bây giờ đã
thành một bãi tha ma. Ngoài đường, trong nhà toàn là người chết, không ai dám
động vào, cũng không dám chôn. Tôi đây là quan phụ mẫu nhìn mà đau lòng, nhưng
cũng không dám mạo hiểm sai người vào lo liệu, chỉ có thể đặt hai cái nồi lớn ở
hai đầu, nấu chút thảo dược cho người còn sống, sau đó đều đặn tiếp chút lương
gạo với nước sạch.”
“Thảo
dược có tác dụng không?”
“Để vỗ
an lòng người mà thôi. Lúc đầu tôi có mời một vị đại phu, ai ngờ hắn sống chết
gì cũng không chịu vào đó. Tôi dọa hắn mấy câu, hắn bèn nói phải về nhà tra
sách nghĩ phương thuốc, tới ngày hôm sau sẽ quay lại. Tôi cũng không chú ý,
biết đâu được ngày hôm sau phái người tới tìm hắn, hắn đã đem cả nhà chạy biệt
tăm biệt tích rồi.”
“Nói
như vậ